Mộng Tuyết

Mộng Tuyết đến với Nam Phong

 

mongtuyet0114

Hoàng Yên Lưu

Vào những năm đầu của thập niên 1930 khi Nam Phong sắp cáo chung sau trên 15 năm hoạt động trên văn đàn, tạp chí này giới thiệu thêm một cây viết miền Nam, sau này trở thành một thi sĩ của phong trào Thơ mới.

Nhân vật nữ giới này là Mộng Tuyết. Mộng Tuyết tên thật Thái Thị Úc sinh ngày 9 tháng 1 năm 1914 ở làng Mỹ Đức, Hà Tiên. Các bút hiệu khác của bà là: Hà Tiên cô, Nàng Út, Bách Thảo Sương, Bân Bân nữ sĩ, Thất Tiểu Muội. Năm 12 tuổi, Mộng Tuyết bắt đầu theo học tiếng Việt ở Trí Đức Học Xá của thi sĩ Đông Hồ. Các sáng tác trong thời kỳ này, sau được tập hợp với nhan đề Bông Hoa Đua Nở đăng trên Nam Phong năm 1930. Sau khi Nam phong đóng cửa (1934), Mộng Tuyết quay sang sáng tác thi ca và góp mặt trên nhiều tờ báo ở Hà nội như Hà nội báo, Tiểu thuyết thứ năm… Năm 1939, Mộng Tuyết được một giải thưởng khuyến khích về thơ của Tự lực văn đoàn với thi phẩm Phấn hương rừng và bắt đầu nổi tiếng từ đó. Năm 1943, bà góp mặt trong tuyển tập thơ Hương xuân. Đây là tuyển tập thơ nữ đầu tiên ở Việt Nam với các nữ thi sĩ như Anh thơ, Vân đài và Hằng phương. Sau 1945, Mộng Tuyết cùng chồng là thi sĩ Đông Hồ lên Sài Gòn mở nhà sách, nhà xuất bản Bốn Phương, Yiễm Yiễm thư trang ở Tân định. Năm 1969, thi sĩ Đông Hồ qua đời, Mộng Tuyết rút lui khỏi làng văn mặc. Vãn niên, bà viết hồi ký rồi lui về sống ở quê nhà là thị xã Hà Tiên và qua đời năm 2007 tại bệnh viện Rạch Giá.

Tác phẩm của Mộng Tuyết được biết gồm: Phấn hương rừng (1939, được tặng giải “Khen tặng” của Tự Lực văn đoàn

Đường vào Hà Tiên (tùy bút, 1960)

Nàng Ái Cơ trong chậu úp (tiểu thuyết lịch sử, 1961)

Truyện cổ Đông Tây (1969)

Dưới mái trăng non (thơ, 1969)

Núi mộng gương hồ (hồi ký ba tập, NXB Trẻ, 1998)

Thơ, tùy bút, truyện ngắn của bà thường đăng trên các báo: Tiểu thuyết Thứ Năm, Hà Nội Báo, Con Ong, Đông Tây, Trung Bắc Chủ Nhật, Tri Tân, Gió Mùa, ánh Sáng, Nhân Loại. Sau đây là phần trích từ thiên du ký Chơi Phú quốc của Mộng Tuyết đăng trên Nam phong từ số 198 tới số 200 năm 1934, khi tác giả ở tuổi 20. Qua đó có thể thấy con người đa cảm của tác giả đã bộc lộ khá rõ khi tiếp xúc với thiên nhiên. Phú Quốc 80 năm trước (1934-2014) được vẽ lại bằng rung cảm của một cô gái phòng khuê mới lớn, bằng những nét đan thanh giản dị và bằng ngôn ngữ giàu chất thơ, có thể giúp quý vị so sánh với Phú Quốc nhiều tục lụy và vật- chất-hóa ngày nay và không khỏi chau mày ngâm lại hai câu thơ cũ:

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Nước còn cau mặt với tang thương.

Người xưa đã đến với cảnh sắc chung quanh bằng tâm hồn một thi sĩ hơn là một nhiếp ảnh gia hay một nhà khảo cứu về phong tục. Đây chính là nguồn lãng mạn cần thiết để Mộng Tuyết dễ hòa nhập vào phong trào thơ mới của thế hệ 32-45. Cũng vì thế trong hồi ký về Văn thi sĩ tiền chiến, nhà thơ Nguyễn Vỹ đã nhận xét xác đáng sau đây về Mộng Tuyết: “Nhất là văn xuôi, Mộng Tuyết viết rất ngọt ngào, chải chuốt, ảnh hưởng nhiều bởi những chuyện Tàu…Thơ của Mộng Tuyết cũng khác thơ Đông Hồ, nó gói ghém nhiều thi tứ hơn, ý nhị hơn.”

Chơi Phú Quốc Con tàu từ từ rẽ sóng…tiến lên. Đã ba tiếng đồng hồ rồi, chúng tôi lênh đênh ở giữa biển khơi bát ngát. Trông ra quanh mình toàn một màu xanh nhạt, mặt nước liền chân mây. Thỉnh thoảng một vài cù lao loáng thoáng ở chỗ mênh mông trời nước. Về phía tây rặng núi Tà lơn bệ vệ nằm dài trong mây khói. Đảo Phú quốc! Một vệt xanh xanh to lớn nằm chắn ngang phía trước, mây tỏa lờ mờ, như dán dính với da trời…Đảo Phú quốc! Cảnh bấy lâu trong mộng tưởng thì kìa đã hiện ra trước mắt. Con tàu từ từ rẽ sóng…tiến lên. Tiếng sóng vỗ vào be tàu nghe như một khúc nhạc hùng hồn oanh liệt. Chúng tôi cảm thấy lòng sung sướng, mạnh mẽ. Tựa vào be tàu, đăm đăm tôi ngó về phía trước: Nước biển một màu xanh bóng như dầu lụt chân mây. Hôm nay trời râm mát, mấy đám mây đen lơ lửng bóng tối, tưởng tượng như con chim đại bàng to lớn xòe đôi cánh bay lướt qua biển Nam Minh. Con tàu từ từ rẽ sóng…tiến lên. Cảnh mờ mờ dần xô lùi lại. Bấy giờ đã thấy rõ ràng màu cây lá xanh biếc gần với màu nước biển xanh dờn, một vệt cát trắng chạy dài ở giữa. Hàm Ninh đã ở trước mặt. Tàu không áp bờ được vì ở đây bãi cạn xa. Tàu đỗ tận ngoài khơi rồi có ca nô đưa vô bờ.

Quận lý Phú quốc ở Dương đông. Dương đông ở về phía bên tây đảo. Về mùa nam này, sóng to gió lớn, tàu thuyền vô cửa bất tiện nên phải đỗ ở đây rồi đáp ô tô qua Dương đông. Ngồi trên ca nô dòm xuống. Nước trong như lọc thấy tận đáy, những con chang chang sứa biển ngo ngoe đang bò, chúng nó sinh hoạt trong cái thế giới thủy tinh. Gần mé bãi, trên dàn cây của người thuyền chài cắm để phơi lưới, một đàn chim nhạn đậu ríu rít rỉa lông, nghe tiếng chèo bơi bì bõm, giật mình cất cánh một loạt bay vù. Đến bờ đã có ô tô đón sẵn. Chúng tôi đáp xe qua Dương đông. Con đường quan lộ tuy chẳng được khang trang rộng rãi lắm, nhưng được cái sạch sẽ sáng sủa. Xe chạy độ non một tiếng đồng hồ thì đến Dương đông. Tính ra cuộc hành trình vừa mất sáu tiếng đồng hồ chẵn. Sáu giờ sáng khởi hành từ Hà Tiên, 12 giờ trưa đã ở Dương đông rồi! Nhớ lại những chuyện nguy hiểm khó khăn của người đi biển bằng thuyền buồm nói lại mà chúng tôi lấy làm sung sướng quá. Trong sáu tiếng đồng hồ đi một cách bình yên mà được trải qua cái cảnh bồng bềnh trên mặt biển, được hít thở cái không khí thanh tân man mác chốn biển khơi, và được thấy bao cảnh vật thanh kỳ ở chốn trời nước gió mây thần tiên xa lạ, đối với cái đời êm lặng kín đáo của người con gái buồng khuê, thật là một dịp may đặc biệt. Dương đông ở về phía tây đảo Phú quốc, một dải đất màu mỡ cây cỏ xanh tươi, nhà cửa ở chen chúc nhau, một con sông xinh xinh chắn đôi, mơn man chảy trong lòng cát trắng. Cơm nước nghỉ ngơi xong, chiều lại rủ nhau đi tắm biển. Bãi cát trắng phau, chạy dài hàng mấy nghìn thước. Ngoài khơi xa, lác đác mấy chiếc thuyền đánh cá, cánh buồm trắng in vào đám mây hồng. Bên rặng núi mờ xanh, nhởn nhơ đàn nhạn lạc, tạo thành một bức tranh ảnh khổng lồ tuyệt đẹp. Chúng tôi nô giỡn với làn sóng bạc trong khoảng trời nước mông mênh thỏa thích. Bỗng một đám mây đen kéo đến phá cuộc vui chơi. Sắp có mưa. Cả bọn cùng dắt nhau về. Đến nhà thì trời mưa lấm tấm đổ hạt. Trời tối, mưa vừa ngớt hạt chúng tôi lại ra đi. Chúng tôi đi trong các ngõ đường để xem cảnh đêm nơi hòn bãi. Trăng mười một. Đêm mờ sương lạnh, ở đây thật có cái vẻ tĩnh mịch vô cùng. Trên mặt biển, lác đác những thuyền con đi “thẻ” mực, ánh đèn soi xuống đáy nước, xa trông lấp lánh như gương…

Trời sáng…sau khi điểm tâm xong chúng tôi khởi hành. Suối Đá ở trên con đường Hàm ninh-Dương đông. Con đường này hôm qua đã có đi rồi nhưng ngồi xe nên không xem ngắm được phong cảnh hai bên. Con đường này hôm qua thì cây cỏ như vô tình, nhưng cảnh vật hôm nay như hữu ý đón chào. Đi bộ hơn cây số thì đến Giếng Tiên. Giếng Tiên huyền diệu lạ lùng như cái tên của nó, là một vũng nước nhỏ cạn ở kề liền bờ sông nước mặn, mà nước vẫn ngon ngọt và đầy tràn luôn…tính cách thần tiên huyền diệu như thế, nên gọi là Giếng Tiên vậy. Từ Giếng Tiên đến Suối Đá còn hơn ba cây số nữa, hai bên toàn là rừng sim cả. Chúng tôi từng được nghe nói lại cái thú mùa sim đi hái trái: cái thú vui vẻ nên thơ lắm, trên cành nặng chĩu trái chín, điểm có mấy chùm hoa nở muộn trắng trắng hồng hồng. Đây một cô bé xinh xinh mang giỏ tay hái trái, nét mặt ngây thơ hớn hở. Kia một người thiếu phụ luẩn quẩn dưới gốc cây, nét mặt vô tư lự ở giữa chốn bông trái đầy rẫy nhẹ nhàng uốn éo, rồi cất tiếng hát ca véo von êm ả. Giờ phút ấy tưởng như đã lạc vào chốn rừng tiên cảnh lạ. Nghe nói mà thích quá, những ao ước được một dịp đi hái sim. Nhưng nay đến đây, mùa này, chỉ có cành không trơ trọi thổi qua một ngọn gió vô tình. Chúng tôi bồi hồi đứng tiếc. Gần đến Suối Đá, xa xa đã nghe nước chảy rào rào. Một cái cầu ván bác ngang suối để nối cho con đường quan lộ chạy ngang. Suối rộng độ bốn năm thước, còn nguồn suối không biết từ đâu chảy lại…Đứng trước đây nhớ công “công mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, thực là có ý nghĩa và có vị quá. Lòng suối toàn là đá từng khối nằm liền nhau chỗ cao chỗ thấp, nước từ trên cao đổ xuống róc rách, bọt nước trắng phau… Chiều đi chơi chùa Quảng Tế. Chùa này là một nơi ưu thắng ở Dương đông. Chùa cất trên một ngọn đồi cao ở bên mặt biển… Đứng trước chùa trông xuống là xóm rẫy. Thỉnh thoảng một túp nhà lá ẩn trong đám cây xanh. Rẫy ở đây phần nhiều trồng cau và dừa; thân cây cao vút trên ngọn tỏa ra một chùm lá dài tha thướt xây tròn buông rủ xuống. Đứng trên cao xa trông xuống nó có một vẻ đẹp là lạ. Đàng xa tít một rặng núi màu xanh nhạt… Phía sau chùa là mặt biển. Chiều, mặt trời sắp lặn. Ánh nắng phản chiếu đỏ rực một góc trời , mấy đám mây sáng rực rỡ lửng lơ trên lưng chừng trời trông như những hòn núi cẩm thạch. Chúng tôi từ trên đồi vừa ngắm cảnh vừa đi xuống bãi cát. Từ trên đồi đi xuống bãi phải đi qua một đám cỏ, thỉnh thoảng có mấy cụm hoa nhỏ và mấy bụi tranh. Cụm hoa bụi tranh ấy khi ở xa trông như mặt biển có điểm mấy cù lao chíu chít. Trong những “cù lao nhỏ” ấy là chỗ trú của giống chim cút. Tiếng người bước sột soạt, vài con ở gần cất cánh bay vù ra rồi xao xác tìm bụi khác chui vào. Thích quá chúng tôi chạy đến mấy bụi khác đuổi phá. Chim lại bay vù rồi xáo xác tìm bụi khác chúi vào. Mải đùa giỡn như thế mà khi đến bãi biển mặt trời đã xuống kề mặt nước. Bấy giờ không còn tia chói nữa, thấy rõ ràng một vầng tròn đầy đặn như mảnh trăng rằm mà có cái màu tươi đỏ hơn, nằm kề tấm gương to, lấp lánh ánh sáng nhạt của bóng chiều tà. Thoạt đầu còn là mảnh trăng rằm tròn vành vạnh, thoáng một cái, còn là hình bán nguyệt, rồi dần dần núp mình khuất bóng sau mảnh gương mờ. Trời đất đi dần vào cõi tối… Đêm nay trăng tốt quá, giờ phút thần tiên dễ bỏ hoài, chúng tôi liền giở cuộc thưởng trăng chơi phiếm trên sông. Cơm tối xong chúng tôi xuống chiếc thuyền con. Con sông quanh co, chiếc thuyền từ từ thả theo dòng nước. Bốn bề yên lặng. chỉ nghe tiếng nhịp nhàng của mái chèo khua nước và tiếng nói chuyện của chúng tôi. Thỉnh thoảng một cơn gió biển thổi qua ấm áp, mát mẻ đến tâm hồn, mặt sông lay động. Đằng sau, bóng trăng dưới nước chập chờn từ từ trôi theo con thuyền, “thuyền đi dắt theo cô hằng”lúc bấy giờ tôi thấy rõ cái cảnh tượng ấy. Chúng tôi sung sướng ở giữa khoảng đêm thanh tĩnh trăng soi gió thoảng như vậy. Chúng tôi mơ màng phảng phất như đang phiếm du trên Hương giang…Cũng trăng, cũng gió, cũng nước, cũng trời, cũng gió đưa cành trúc, cũng tiếng gà vẳng xa, cũng tiếng chuông ngân nga vang động. Bấy giờ thuyền đi đã xa chợ, đến chỗ rẽ của con sông, chúng tôi cho thuyền rẽ ngang qua một cánh đồng toàn cây xanh ngắt. Đom đóm từng đàn trong đám cây bay ra ánh sáng rọi xuống mặt nước im lặng không tí sóng, trông như muôn nghìn ngôi sao lấp lánh. Đêm đã khuya chúng tôi quay thuyền ra về. Các nhà ở hai bên bờ sông đều ngủ yên cả, chỉ còn loáng thoáng mấy ngọn đèn của người đi soi cua, soi ghẹ dọc theo mé sông leo lét trong khoảng đêm trường.”

– Theo ThoiBao

Bình luận về bài viết này