Cảm nhận khi đọc truyện ngắn “Cô Sướng Cưới Vợ”

Gallery

VŨ THỊ HƯƠNG MAI   Tôi đọc truyện ngắn “Cô Sướng Cưới Vợ” trên trang facebook của tác giả Đặng Xuân Xuyến. Lối viết dí dỏm của anh đã lôi cuốn tôi ngay từ phần đầu của truyện. Khi đọc … Tiếp tục đọc

Con mèo nhập niết bàn

Elizabeth Coatsworth
Doãn Quốc Sỹ chuyển ngữ từ nguyên tác The Cat Who Went to Heaven của Elizabeth Coatsworth.

cat

CON TÀI LỘC

Xa … xa lắm, mãi tận bên xứ Nhật Bản, xưa có một chàng họa sĩ nghèo. Hôm đó họa sĩ đương ngồi buồn thiu trong căn nhà nhỏ của chàng, chờ bữa ăn trưa. Người vú già đi chợ chưa về, chàng lim dim ngồi đó, thở dài nghĩ đến những thức ăn mà người vú có thể mua về. Chàng ngóng đợi từng phút từng giây bước chân hấp tấp của vú, tưởng tượng vẻ khúm núm khi vú kính cẩn trình lên chủ những thứ mua về đựng trong chiếc lẳng nhỏ, phải đảm đang lắm mới có thể với mấy xu tiền chợ mà mua về ngần bao nhiêu thứ. Họa sĩ quả đã nghe thấy tiếng chân trở về. Chàng nhỏm vội dậy. Chàng đói lắm rồi.
Nhưng sao vú lại e dè dừng bước trước cửa thế kia? Lẵng thức ăn đậy kín.
“Vào đi chứ, vú,” chàng nói lớn, “xem vú mua được những gì nào”.

Người vú run run, hai tay ôm chặt lấy chiếc lẵng tre. “Bẩm cậu,” người vú nói, “cháu nghĩ rằng nhà mình quạnh quẽ quá.” Những nét nhăn trên khuôn mặt già nua của vú vừa phiền muộn, vừa thoáng vẻ cương quyết.
“Quạnh quẽ!” họa sĩ nói, “thì tất nhiên là quạnh quẽ rồi! Vú bảo làm sao mà khách khứa tấp nập vào ra nhà này được, chúng ta có gì đãi họ đâu? Ngay như ta đây, đã từ lâu chẳng được nếm miếng bánh trôi bánh chay nào, hương vị những thứ đó cơ hồ ta cũng quên phứt đi rồi!” Và họa sĩ lại thở dài, bởi quả tình chàng thích những loại bánh chưng, bánh trôi, bánh chay vô cùng. Ôi bánh chưng nhân đậu có mỡ ngậy, bánh trôi bánh chay nhân đậu đường nhuyễn thả ngập trong màu chè đường đặc sánh và tinh khiết. Chàng còn thích uống trà với vài người bạn thân, trà pha và rót vào chén men sứ trắng phau, vừa thưởng thức trà vừa cùng bạn đàm đạo về một cành đào hoa nở chẳng hạn, cành đào đẹp như một nàng công chúa khép nép trong khuê phòng.
Nhưng đã từ lâu rồi, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác chẳng có ma nào tới mua cho một bức tranh nhỏ. Đã từ lâu rồi chàng họa sĩ nghèo nàn cam phận với bát cơm hẩm ăn với chút tép kho, nhưng nếu cái điệu chẳng ai tới ngó ngàng mua tranh này, còn kéo dài thì đến cơm hẩm tép kho cũng chẳng có được nữa. Đôi mắt chàng trở về với chiếc lẵng xinh còn đậy kín. Có thể là vú đã khéo thu xếp mua được một hay hai củ xu hào cũng nên, biết đâu lại chẳng thêm cả một quả đào chín mọng.
“Bẩm cậu,” người vú vừa nương theo hướng nhìn của chủ vừa nói, “cháu lại còn nhớ hình như đêm đêm cứ bị thức giấc vì chuột.”
Nghe tới đó chàng họa sĩ bật tiếng cười lớn.
“Chuột?” chàng nhắc lại khôi hài. “Chuột? Vú ơi, chuột nào mà đậu được ở cái nhà quanh năm không có lấy một hạt cơm vãi trên chiếu?”
Và chàng chăm chú nhìn người vú, trí thoáng gợn nghi ngờ:
“Vú không mua gì ăn về thì phải!”. Chàng nói.
“Dạ!” người vú ngượng ngùng đáp.
“Và vú mua về con mèo thì phải.”
Người vú vội cúi thấp đầu hơn nữa khúm núm: “Bẩm cậu thực sáng suốt, cái gì cậu cũng biết!”
Tới đó thì chàng họa sĩ dậm chân đánh rầm một cái. Rồi vừa vò đầu bứt tai vừa đi đi lại lại trong phòng, chàng tưởng như mình chết đến nơi rồi, vừa chết đói vừa chết tức.
“Mèo! Trời ơi, mèo!” – chàng nói như hét – “vú mua mèo làm gì cơ chứ, vú điên sao? Mình chết đói đến nơi rồi, vú biết đấy, vú lại đi rước con quỷ này về, rồi phải nuôi nó chứ, biết đâu nó chẳng còn hút máu mình nữa. Phải rồi, đêm đến khi tôi sực dậy, khi vú sực dậy đã thấy răng nó cắn ngập cuống họng mình, chỉ còn biết nhìn vào đôi con mắt to bằng hai cái đèn lồng của nó, thật tuyệt! Ờ mà có lẽ vú có lý! Nghèo khốn đến thế này thì thà chết quách cho xong, thây cho con quỷ quặp lấy xác mình ta đi trên nóc nhà”.
“Bẩm cậu” vú ngước đầu kêu lớn, “nhưng cũng có nhiều con mèo thật tốt. Bẩm cậu, cậu quên rồi sao chuyện thằng nhỏ vẽ toàn mèo trên tấm bình phong tại ngôi đền bỏ hoang nọ, rồi nó vào ngủ vùi trong căn phòng nhỏ, nửa đêm phấp phỏng nghe như có tiếng mèo gào? Rồi sớm hôm sau tỉnh dậy nó thấy xác một con chuột khổng lồ ở ngay trước bực cửa. Tất nhiên là con chuột định đến ăn thịt nó. Bẩm cậu, ai đã giết con chuột khổng lồ đó? Chính là những con mèo của chú bé, những con mà chú đã vẽ trên bình phong chúng vẫn ngồi nguyên trên bình phong kia, nhưng móng vuốt đầy máu me. Bẩm cậu, có nhiều mèo tốt lắm chứ!”
Nói tới đấy vú khóc nức nở, chàng họa sĩ dừng lại, nhìn những giọt nước mắt chảy liên tiếp trên khuôn mặt nhăn nheo của vú già. Sao chàng nỡ nổi đóa lên như vậy? Đâu phải là lần đầu chàng bị đói!
“Thôi được rồi, vú,” chàng nói, “đôi khi có một con quỷ trong nhà cũng là điều hay, nó sẽ đuổi hết những con quỷ khác ra khỏi nhà. Rồi con mèo của vú tất nhiên cũng muốn có cái ăn chứ, biết đâu nó lại chẳng run rủi cho ta gặp vận kiếm được chút tiền. Phải, biết đâu! Mình đã khổ cực đến như thế này, thì cũng chẳng thể khổ cực hơn được nữa.”
Người vú khúm núm cúi đầu cảm tạ.
“Thực cả vùng này hiếm có người nhân đức như chủ ta,” vú nói đoạn toan cắp chiếc lẵng còn đậy kín nắp xuống bếp.
Nhưng chàng họa sĩ làm hiệu cho vú dừng lại. Như mọi nghệ sĩ khác, chàng tò mò.
“Nào để ta xem con mèo ra sao nào”, chàng nói như thể rửng rưng xem hay không cũng được.
Người vú vội đặt rổ xuống, khẽ nâng chiếc nắp lên. Thoạt không một chút động tĩnh. Rồi một chiếc đầu … một chiếc đầu tròn, xinh lông trắng muốt từ từ nhô khỏi miệng rổ tre, rồi hai con mắt ánh vàng mở lớn e dè nhình quanh phòng, rồi một chiếc chân trắng muốt từ từ đặt lên miệng rổ. Rồi bỗng nhiên cả con mèo xinh trắng muốt thoắt dời khỏi đáy lẵng nhảy lẹ lên chiếu, cái lẵng không hề động đậy. Nó đứng đấy y hệt một người vẫn chưa hề được biết là mình có được đón tiếp nồng hậu hay không. Bây giờ thì mèo đã nhảy hẳn ra ngoài rồi, họa sĩ thấy hai bên sườn nó có những đốm màu vàng, đuôi nó xinh như đuôi thỏ mà dáng dấp thì rất mực tao nhã.
“Trời ơi, một con mèo tam thể”, chàng reo vui “sao vú không ngay với tôi từ đầu? Nhà có được con mè tam thể như thế này là hên lắm đó”.
Họa sĩ vừa dứt lời, con mèo như hiểu ý, nó tiến lên, tới trước chàng, hơi cúi chiếc đầu xinh xuống như để cảm ơn chàng, trong khi người vú già vỗ tay vì vui mừng. Chàng họa sĩ quên khuấy rằng mình đói, đã lâu lắm chàng có gặp được cảnh nào đáng yêu vừa ý như vậy đâu.
“Hààà.. phải đặt cho nó một cái tên chứ”, chàng vừa nói vừa ngồi xuống manh chiếu cũ trong khi con mèo đứng nghiêm trang trước chàng. “Xem nào, nó trắng như tuyết mới rơi, lại lốm đốm điểm vàng, điểm nâu cánh gián; nó như bông hoa trắng tinh hàm tiếu lại có hai loại bướm vừa đậu xuống; nó như …”
Tới đây chàng họa sĩ ngừng lại, vì tiếng gù gù của con mèo ấm cúng như tiếng nước sôi trên bếp lửa chuẩn bị pha trà.
“Thật tuyệt!” Họa sĩ thốt khẽ. “Thế này còn hơn cơm hơn gạo nhiều”. Rồi chàng nói với người vú già, “Nhà ta trước đây quả là quạnh quẽ thật, vú nói đúng”.
“Bẩm cậu thứ lỗi cho”, người vú nói, “cậu nghĩ sao cháu xin đề nghị đặt tên nó là con Tài Lộc?”. Tài Lộc, dù sao thì cái tên đó cũng nhắc nhở dùm họa sĩ bao nỗi đắng cay hiện tại của chàng.
“Thôi cũng được”, chàng nói, rồi đứng dậy thắt lại dải lưng cho chặt hơn quanh chiếc bụng lép kẹp, “nhưng bây giờ vú hãy mang nó xuống bếp ngay đi”. Chàng vừa dứt lời, con mèo đã đứng dậy theo vú ra khỏi phòng, bước nó đi vừa nhẹ nhàng vừa nhẫn nhục khiêm tốn làm sao!
BÀI HÁT CỦA NGƯỜI VÚ GIÀ
Xá chi nghèo túng già nua,
Xá chi mái tóc bạc phơ trên đầu.
Xá chi áo vải rách nhàu,
Xá chi giải lụa phai màu xác xơ.
Thần Tài Lộc vẫn chưa gõ cửa,
Khách khứa con vắng vẻ nơi xa.
Không tiệc sớm, không trà trưa,
Nhện buồn mặc nhện trăng tơ giăng mành.
Riêng ta vẫn vui cùng chủ cũ,
Đầu ngẩng cao, lòng nhủ lòng hay:
Tài danh lồng lộng xưa nay,
Thân hèn rồi cũng thơm lây ngại gì.
BỨC HỌA
Sáng hôm sau họa sĩ thấy con mèo nằm cuộn tròn như trái banh trên chiếc đệm nhỏ của chàng.
“À, ta biết, chỗ nằm êm nhất đó!” chàng nói. Con mèo – con Tài Lộc – lập tức đứng dậy, đi ra nơi khác tự lau chùi mặt mũi cẩn thận và khéo léo vô cùng. Khi người vú già đi chợ về, bắt đầu nhóm lửa nấu bữa ăn còm, Tài Lộc cũng không hề tiến tới gần, mặc dầu tia nhìn nó đôi lần có lãng đãng hướng về đấy, và hai hàng ria mép mướt như tơ của nó run rẩy vì đói. Cũng là vô tình nó có mặt đúng lúc người vú già bưng chiếc bàn gỗ vuông có chân thấp lên nhà đặt trước chủ. Rồi vú bưng lên bát cháo cá – có trời biết vú đã khéo ăn khéo nói thế nào để có thể xoay xở mua được cá nấu cháo như vậy – nhưng kìa con Tài Lộc lại biết hướng tia nhìn sang phía khác.
Họa sĩ rất hài lòng, chàng nói với vú: “Hình như con mèo cũng hiểu rằng nhìn người khác ăn là một thái độ vô lễ nên tránh. Nó được dạy dỗ đúng cách lắm. Vú mua của ai vậy?”
“Bẩm cậu cháu mua của một người đánh cá ở chợ,” người vú đáp. “Nó là con đầu lứa. Bẩm cậu cũng biết đấy, không một ngư nhân nào rong buồm ra khơi đánh cá mà không mang theo một con mèo trên thuyền để nó xua đi những tà ma hải quái.”
“Chà, tà ma hải quái với mèo là bà con thân thuộc với nhau, vú biết không,” họa sĩ nói, “tà ma hải quái không lập úp thuyền là vì thương con mèo chứ không phải vì sợ nó.”
Vú không cãi lại, vú biết phận lắm. Tài Lộc thì vẫn ngồi ngay gần đấy quay mặt vào tường.
Húp thêm một, hai ngụm cháo nữa, họa sĩ nói với người vú già:
“Lát nữa khi vú mang cơm lên cho tôi, vú làm ơn mang cho Tài Lộc một bát, tội nghiệp chắc nó đói lắm rồi đấy vú ạ.”
Khi vú đã mang bát cơm lên cho mèo, khi đã được chủ chính thức gọi, Tài Lộc mới thôi quay mặt về phía bên tường mà thủng thỉnh tới ngồi bên chủ. Nó không hối hả vục miệng xuống ăn. Trái lại nó ăn nhỏ nhẻ, giữ cho cằm không bị dính cơm. Và mặc dầu nó đói lắm, nó vẫn chỉ ăn có nửa phần, nửa phần còn lại để dành cho ngày hôm sau, tựa hồ nó cũng biết hết sức tránh để khỏi là một gánh nặng cho người chủ nghèo.
Cứ như vậy ngày lại ngày trôi qua. Một buổi sáng họa sĩ quỳ trầm tĩnh trên chiếc nệm nhỏ và vẽ những bức họa xinh thiệt là đẹp: khi thì là những chàng dũng sĩ đeo hai gươm; khi là những kiều nữ đương quấn mớ tóc mây; khi là mấy ông thần gió đương phùng mang trợn mép thổi; khi lại là mấy chú thỏ xinh chạy dưới ánh trăng hoặc mấy chú chồn mập thù lù tự vỗ lên bụng như vỗ lên trống. Vẫn chẳng có ai tới mua tranh cho chàng.
Trong khi chàng làm việc như vậy thì vú già đi chợ, tiêu pha hết sức tần tiện với số tiền nhỏ nhoi còn lại, rồi làm cơm, giặt gịa, lau chùi, và khâu mạng để áo quần họ mặc, nhà cửa họ ở bớt vẻ tả tơi chừng nào hay chừng nấy. Con Tài Lộc tự biết chẳng thể giúp chủ được gì về những việc ấy nên ngồi lặng thinh sưởi nắng, cố ăn ít chừng nào hay chừng nấy, và rất nhiều khi nó ngồi hằng giờ trước tượng Phật đặt trên một cái kệ thấp gần đấy.
“Bẩm cậu, con miu đang niệm Phật,” vú nói bằng một giọng cảm mến.
“Nó đương rình bắt ruồi đấy,” họa sĩ nói. “Vú có vẻ đặt quá nhiều tin tưởng vào con mèo tam thể của vú.” Ý chừng chàng họa sĩ trong thâm tâm cảm thấy hơi ngượng vì dạo này quả tình chàng rất ít niệm Phật. Đời sống có thư thái gì đâu.
Nhưng tới một ngày kia chàng phải buộc lòng công nhận con Tài Lộc quả không giống những con mèo khác. Hôm đó chàng đương ngồi trong căn phòng riêng của chàng, ngắm lũ chim sẻ bay ra bay vô từ một bụi hoa gần đấy. Bỗng chàng thấy con Tài Lộc tự một khoảng tối vụt nhảy tới, chụp được một con chim. Trong một giây đồng hồ đôi cánh nâu, chiếc đầu có chấm đen, đôi chân mảnh mai, đôi mắt ráo rác bị chụp gọn giữa hai chân mèo. Họa sĩ có thể vỗ tay ra hiệu bắt con mèo tha con chim nhưng chàng chưa kịp làm một cử động nhỏ nào, chàng đã thấy vẻ lưỡng lự của con mèo. Rồi từ từ, rất từ từ, nó nhấc một chân lên, rồi nhấc nốt chân kia nữa. Thoát nạn, con chim không hề bị thương vỗ cánh, thoạt lao đao một chút, rồi vút lên cao.
“Thật là nhân đức!”. Họa sĩ thốt lên như vậy và cảm thấy lệ rưng rưng lên mắt. Chàng hiểu là con miu đói lắm, chàng còn lạ gì cảnh đói nữa. “Ta thật tự lấy làm xấu hổ trước đây đã gọi nó là con quỷ”, chàng nghĩ vậy. “Nó thật còn nhân đức hơn một vị hòa thượng nữa.”
Chính ngay vào lúc đó vú già rón rén vào, khuôn mặt cố kìm giữ một niềm vui kích thích.
“Bẩm cậu!” vú lắp bắp nói. “Bẩm cậu vị hòa thượng chủ trì ở chùa lớn đợi cậu tại phòng bên. Người nói người muốn gặp cậu ngay. Trời ơi, cậu có thể đoán được người đến đây tìm gặp để làm gì không?”
“Vị hòa thượng tự chùa tới đây tìm tôi?” họa sĩ nhắc vậy còn không tin là mình đã nghe đúng, bởi hòa thượng là một nhân vật vô cùng quan trọng, người làm gì có thì giờ đi thăm những loại nghệ sĩ nghèo chẳng ai buồn để ý tới như chàng. Khi thấy vú gật đầu lia lịa tới đó chàng cũng cảm thấy bị kích thích như vú vậy. Chàng phải cố giữ cho bình tĩnh.
“Phải đi mau, vú!” chàng thốt lên. “Phải đi mau, mua trà và bánh ngọt,” và chàng trao cho vú vật có giá cuối cùng mà chàng còn giữ được, đó là chiếc bình cổ chàng vẫn dùng để cắm một cành hoa trang điểm cho căn phòng. Dù sau đây căn phòng riêng của chàng có bị trần trụi cũng không sao; quý khách giáng lâm tất phải được tiếp đón nồng hậu. Chàng tự trách đã để hòa thượng phải ngồi chờ chàng, dù chỉ một phút. Chàng tự trách đã không biết trước để ra đón người tự ngoài cổng vào. Khi chàng vội vã bước ra, chàng cũng không chú ý đến con Tài Lộc có giụi đầu vào gót chân chàng tỏ vẻ sung sướng.
Tại phòng bên vị hòa thượng đã ngồi đợi kia, vẻ lim dim như đang tham thiền. Họa sĩ cúi đầu kính cẩn chào và đợi người chú ý tới. Thực là cả một thế kỷ chờ đợi với chàng lúc đó cho tới khi vị hòa thượng từ từ ngẩng đầu lên, nhìn chàng với đôi mắt xa xôi của người. Họa sĩ cúi chào một lần nữa và kính cẩn thưa đây là một điều vô cùng vinh hạnh cho chàng được hòa thượng chiếu cố tới nhà.
Vị hòa thượng vào đề tức khắc:
“Chúng tôi cần một bức họa cho ngôi chùa của chúng tôi,” người nói, “một bức họa vẽ đức Phật lúc Người tịch diệt. Chúng tôi đã bàn về cách lựa chọn họa sĩ và đã đồng ý viết tên từng họa sĩ trên từng mảnh giấy nhỏ rồi bầy hết trên bàn thờ chính điện. Sớm hôm sau gió đã lùa quét hết những mảnh giấy khác trừ mảnh giấy có ghi tên họa sĩ. Như vậy tôn ý đức Như Lai đã rõ. Chúng tôi lại cũng được biết đôi chút về hoàn cảnh hiện thời của họa sĩ nên có mang theo đây ít tiền đặt trước để họa sĩ khỏi phải lo lắng về vấn đề sinh kế trong khi vào việc. Mặt hồ có trong hình ảnh phản chiếu mới diễm lệ. Nếu họa sĩ thành công trong việc này, đó là điều chúng tôi kỳ vọng, họa sĩ sẽ giầu sang mấy hồi, bởi khi đã được chùa ta thẩm định giá trị, thì cả tỉnh sẽ nô nức thẩm định theo.” Nói đoạn vị hòa thượng rút bên mình ra một bọc tiền.
Họa sĩ cũng không nhớ là sau đó chàng đã cám ơn vị hòa thượng thế nào, đã mời vị hòa thượng dùng trà, dùng bánh ra sao, đã cúi chào tiễn biệt vị hòa thượng khả kính bên khung cửa hẹp của nhà mình ra sao. Dầu sao thì đây cũng là dịp giàu sang, danh vọng đến gõ cửa nhà chàng. Đẹp như một giấc mộng đẹp! Nhưng vì sao đức Như Lai lại chọn chàng kia chứ? Dạo này trái tim nặng u sầu lo lắng, chàng có mấy khi chú ý tới việc cầu nguyện, vú già cũng vậy, vú bận tối tăm mặt mũi suốt ngày mà. Không lẽ chính con Tài Lộc đã nguyện Phật cho chàng? Chàng e ngại đây chỉ là giấc Nam Kha bất bình, và khi bừng con mắt dậy lại thấy mình tay không thôi. Có lẽ chàng sẽ còn chìm trong giấc mơ suy tư lo lắng đó mãi nếu không có thứ tiếng chi là lạ nổi lên thức tỉnh chàng.
Không phải chỉ có một mà là hai thứ tiếng lạ, thiệt lạ, họa sĩ chưa hề bao giờ nghe thấy. Rất đỗi ngạc nhiên, họa sĩ lần mò xuống bếp xem đó là hai thứ tiếng gì. Tới nơi thì Trời Phật ơi, đó là vú già và con Tài Lộc, một thì đương khóc vì sung sướng, một thì kêu gù gù vì sung sướng, và thực khó mà biết rằng giữa hai kẻ đó, kẻ nào làm rộn lớn hơn kẻ nào.
Họa sĩ bỗng cất tiếng cười lớn, không phải tiếng cười tủi thân giận đời thường có trước đây, mà là tiếng cười giống như tiếng cười của một chàng trai mới lớn, yêu đời, tin đời. Rồi họa sĩ ôm cả hai lên tay. Thế là trong gian bếp nghèo của chàng lúc đó có ba loại tiếng động hòa hợp với nhau để bày tỏ niềm vui.
THAM THIỀN
Sớm hôm sau, trước khi vừng đông ló rạng, vú già đã trở dậy quét dọn cửa nhà. Vú giặt giũ lau chùi cẩn thận đến nỗi những chiếc chiếu trông láng tựa đồ cũ bằng bạc và các đồ gỗ thì bóng như được mạ lướt bằng vàng. Trong khi đó chàng họa sĩ cũng đã y phục chỉnh tề, tóc chải mượt để tới quỳ niệm trước tượng Phật. Tới nơi chàng thấy con Tài Lộc đã ở đó rồi, vẻ rất sùng kính, thấy chủ tới nó vội né sang một bên. Thế là cả hai thày trò cùng ngồi niệm Phật. Họa sĩ giơ cao hai cánh tay, đôi khi hai bàn tay vỗ khẽ vào nhau như để xá tạ một lần cuối rồi sang phòng bên ngồi xếp bằng tròn trên chiếc nệm nhỏ. Chưa bao giờ chàng cảm thấy mình sung sướng như vậy.
Ngày hôm nay chàng sửa soạn vẽ đức Thế Tôn lúc Ngài nhập diệt. Bức họa sẽ được treo tại chùa làng để đời con, đời cháu, đời chắt, đời chút chàng được ngắm. Vinh hạnh biết bao! Tuy nhiên trước mặt chàng vẫn chưa hề có một cuộn lụa, một thỏi sơn, một chiếc bút lông, một bình nước suối trong mát. Chưa, chưa cần những thứ đó vội, chàng cần phải tìm hiểu cuộc đời thâm diệu của đức Như Lai đã nhiên hậu mới có thể ca ngợi Người trên lụa.
Thoạt tiên họa sĩ tưởng nhới tới Người khi còn là thái tử Tất đạt đa sống trên nhung dưới lụa trong cung, kẻ hầu người hạ tấp nập tưng bừng. Chàng nhớ lại Người đã thắng oanh liệt các tình địch ra sao trong cuộc thi tài cưỡi ngựa, bắn cung, múa kiếm để chiếm trái tim công chúa Da du đà la, trang tuyệt thế giai nhân con gái tiểu vương Thiện giác. Và ngay trong phút chiến thắng đó, họa sĩ hiểu lắm, thái tử cũng không hề để lòng gợn một chút tự kiêu, khinh khi các tình địch chiến bại của mình. Thái tử quả là hiện thân của ý chí dũng mãnh, của Trí-huệ sáng suốt, của Từ-bi rộng lớn. Đó, tất cả những điều trên họa sĩ suy ngẫm ngày đầu.
Sang ngày thứ hai họa sĩ tưởng nhớ lại thái tử đã cảm thương cho chúng sinh bị khu bách trong sinh, lão, bệnh, tử ra sao, người đã giã biệt vợ con, từ bỏ cuộc đời vương giả phù du, một mình lên đường đi tìm tình yêu trường cửu cho cả nhân loại như thế nào.
Sang ngày thứ ba họa sĩ ngồi tham thiền tưởng nhớ lại tất cả những nỗi gian lao thái tử đã trải trong những ngày khất thực tìm đạo giải thoát cho nhân loại khổ đau. Sau cùng nguồn trí huệ sáng láng đã tới với Người, giúp Người đạt được niềm yên bình vĩnh cửu. Người trở thành Phật, đấng Sáng Suốt, đấng Toàn Tri Toàn Năng.
Chàng họa sĩ mệt lắm rồi. Chàng đã cố gắng sống lại cả một cuộc đời kỳ diệu trong ba ngày. Nhưng cũng vì vậy mà chàng thâm cảm được lúc sắp nhập diệt khuôn mặt đấng Từ Bi ra sao. Khuôn mặt Người hẳn là cao quý và cương nghị như khuôn mặt của một ông hoàng. Khuôn mặt Người hẳn cũng đượm niềm xót thương lũ chúng sinh còn trong bể khổ. Và đồng thời gương mặt người hẳn cũng tỏa ra một niềm thanh tịnh an lành.
Tìm hiểu tới đấy chàng hoàn toàn kiệt lực. Mắt nhắm nghiền, chàng ngủ liền hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Thức giấc, chàng kêu mang lại nào bút lông, nào mực, nào nước suối và một cuộn lụa. Ngay đầu cuộn lụa chàng vẽ hình đức Phật nằm nghiêng trên giường, nét vẽ sắc lẹ và vững chắc.
Mấy ngày kế tiếp chàng vẽ các thiên thần, sơn thần, thủy thần, thổ thần cùng các đệ tử của đức Phật đến kính viếng trước khi Người nhập Niết bàn. Hết thần và người, chàng họa sĩ bắt đầu vẽ tới các loài cầm thú. Chúng cũng trên đường tới chào vĩnh biệt đức Phật tổ.
Chàng nhớ thuở sinh thời đức Phật, Người thương mến những vật hèn mọn biết là chừng nào. Nghĩ đến những con ốc sên mà chàng đã có dịp ngắm chúng đi, chiếc sừng xinh, chiếc vỏ ốc tròn, thân hình như chiếc lá lợt ướt, chúng sống thẹn thùng e lệ nhưng đầy thiện chí, chàng bèn nhúng bút vào bình nước suối, quệt mực, và vẽ một con ốc sên. Kế đến chàng nghĩ về con voi thân hình to lớn, dũng mãnh và khôn ngoan. Chàng nhớ voi rất được tôn trọng và là biểu tượng cho vương quyền tại Ấn Độ, quê hương đức Như Lai. Thế là chàng lại cầm bút tẩm mực vẽ hình con bạch tượng rất là uy nghi, đôi mắt nhỏ và hiền, đôi tai lớn với những đường gân hồng.
Những ngày kế tiếp chàng vẽ rất nhiều các giống vật khác. Chàng vẽ con ngựa cao quý và can trường với con bạch nga đẹp như mộng, con trâu trung hậu và tự trọng với con chó trung thành; cứ như vậy tới khắp các giống vật trên trần gian. Mỗi lần họa sĩ vẽ xong một con vật nào, con Tài Lộc, luôn luôn ngồi yên lặng sát đấy, lại ren rén bước lên chăm chú ngắm nghía rồi kính cẩn quay nhìn chàng như muốn nói, “Chao ôi, chủ nhân ngài thực là một đại nghệ sĩ.” Nó như lại thở dài với niềm lo âu biết rằng chủ nhân rồi có vẽ mèo giữa các giống vật khác?
TÁC PHẨM CỦA TÌNH THƯƠNG
Tới ngày kia họa sĩ ngồi trên nệm, tri lự bị giằng co bởi một vấn đề nan giải nhất tự trước đến nay. Vẻ nhũn nhặn của con ốc sên, sức lực và trí khôn cao quý của con voi, đức can trường của con ngựa, vẻ đẹp của con bạch nga, sức dẻo dai của con trâu, sự trung thành của con chó, và đức rộng lượng của con nai, tất cả đều dễ dàng giải thích trước đây chúng có thể đã phục vụ đức Phật tổ ra sao, hoặc ngay cả ở một tiền kiếp nào, Ngài đã từng sống dưới những hình thức đó. Với chim gõ kiến, thỏ rừng, ngỗng, dê, đười ươi cũng vậy chúng đều là những con vật vô hại; ngay cả sư tử cũng chỉ bắt con giống khi đói lòng thôi, có bao giờ sư tử lấy giết tróc làm thú tiêu khiển đâu.
Nhưng họa sĩ lại biết rằng cả con hổ cũng đến chào vĩnh biệt đức Phật và cũng được Phật độ. Sao có thể thế được nhỉ? Chàng nghĩ đến thái độ hung dữ bạo tàn của loài hổ, chàng tưởng tượng chúng đương nằm dài dưới bóng rừng loang lổ mắt rực tia lửa. Chúng là mối nguy cơ khoảng gần vùng nước, chúng là quân sát nhân giữa vùng lau sậy. Đôi khi một con lần mò về làng cõng đi một người đàn bà đương trên đường tới giếng kín nước. Hoặc một con khác tới vồ người đàn ông đương làm đồng, tha đi đứa trẻ nhỏ đương chơi đất trước cửa nhà mình.
Còn gì ở một con vật như vậy mà Phật độ?
Lâu, lâu lắm họa sĩ ngồi trầm tư, và sau cùng chàng nhớ ra rằng con hổ vốn vô cùng tận tụy với “bạn đường”, với con thỏ; nó dám đương đầu với bất cứ điều dị thường nào, trong trường hợp những thân tình đó gặp cơn nguy biến. Chàng nghĩ: “Đó chính là con đường hẹp đưa hổ tới đức Phật. Có thể có hung hãn trong thương yêu, và thương yêu trong hung hãn”.
Chính vì chàng đã mở rộng ý nghĩ để đi sâu vào thế giới Yêu Thương (và ngay loài hổ cũng có yêu thương) mà chàng bỗng sực nhớ ra một điều từ trước tới nay vẫn quên. Trong trí chàng lúc đó hiển hiện cảnh thái tử Tất đạt đa lúc thí võ để đoạt nàng Da du đà la. Trong cuộc thi tài với các hoàng tử tình địch khác thái tử đã trương cánh cung bằng đồng đen nặng lắm ở đền Simbahanou mà không ai trương nổi; thái tử đã cưỡi được con ngựa ô long hung hãn mà không ai trị nổi; thái tử đã lẹ đưa một đường kiếm tiện phẳng cả hai thân cây cổ thụ mọc song đôi. Nàng Da du đà la lúc đó vẫn ngồi nơi kiệu vàng để theo dõi thái tử, mặt nàng che một làn voan mỏng có những vằn vàng vằn đen.
Sau cùng đến lúc trao giải cho kẻ chiến thắng, Tiểu vương Thiện giác dẫn thái tử Tất đạt đa tới bên con gái mình. Chính vào lúc đó thái tử ghé bên tai nàng Da du đà la thì thầm: “Làn voan mỏng có vằn vàng vằn đen của nàng đã giúp ta nhớ lại một thuở tiền kiếp xa xưa nàng là hổ cái, và ta là hổ đực, ta cũng phải chiến thắng hết các tình địch như ngày hôm nay mới chiếm đoạt được nàng.”
Thế là trong muôn vàn kiếp tái sinh đức Phật đã hân hoan có lần được tái sinh làm kiếp hổ, chứng tỏ rằng ngay trong kiếp sống man rợ đó vẫn có một cái gì cao cả. Sau cuộc suy tư dài, họa sĩ bừng khám phá thấy vẻ đẹp riêng tư của kiếp hổ, hung hãn đấy nhưng cũng đầy tận tụy hy sinh. Chàng hoan hỉ chấm bút vào bình nước suối quệt mực và vẽ một con hổ trên mặt lụa.
Như thường lệ con Tài Lộc lại ren rén tới. Khi nhận ra hình con hổ, toàn thân nó run lên bần bật, và nó nhìn họa sĩ.
“Bẩm chủ nhân,” nó nhường như muốn nói với họa sĩ, “nếu đến như con hổ cũng được lên đường tới chào vĩnh biệt đức Phật khi Ngài sắp nhập diệt thì một con mèo nhỏ nhoi vô hại hẳn cũng sẽ được tới. Bẩm chủ nhân, con chắc chắn là nó cũng được Phật độ mà nhập Niết bàn.”
Họa sĩ lộ vẻ buồn rầu vô cùng.
“Tài Lộc, con” chàng vừa dịu dàng nói vừa ôm nó lên tay, “ta cũng muốn vẽ một con mèo trong đám này lắm. Khổ thay tất cả mọi người đều biết là mặc dầu mèo đáng yêu thật, nhưng nhiều khi mèo lại kiêu căng, tự mãn. Cả muôn loài, riêng có mèo là không được Phật độ. Có lẽ điều đáng trách là mèo hay làm bạn đồng hội đồng thuyền với những loại tinh ma quỷ quái.”
Tới đó con Tài Lộc cứ giụi giụi chiếc đầu xinh của nó vào ngực họa sĩ, và ai oán cất tiếng kêu meo meo y như đứa trẻ khóc. Họa sĩ cố dỗ dành nó, rồi chàng gọi vú già lên.
“Vú hãy mua riêng cho Tài Lộc một con cá thật ngon,” chàng nói với vú già. “Và cho đến ngày bức họa được mang đi, vú đừng để nó lên đây nữa. Nó có thể làm chúng ta tan nát cõi lòng.”
“A, bẩm cậu cháu cũng sợ nó làm hư bức họa,” giọng vú đượm vẻ lo lắng. Vú luôn luôn cảm thấy mình có trách nhiệm với con mèo đã mang về ngoài ý muốn của chủ, huống chi tài lộc của chủ từ nay về sau đặt cả vào bức tranh sẽ được ở chùa làng kia.
“Không phải thế đâu vú ạ,” họa sĩ nói vậy rồi quay trở lại trầm tư. Trông chàng mệt mỏi, kiệt sức nhưng cũng thật đẹp. Bức họa của chàng gần hoàn tất rồi. Kia là hình đức Phật nằm dài lúc Người sắp nhập diệt, khuôn mặt vương giả, mệt mỏi, xót thương. Kia là hình chư thần cùng những đệ tử quây quần bên Phật; và kia là các giống vật. Cuộn lụa tưởng khó mà chứa đủ ngần nhiêu cuộc đời khác nhau; tất cả sùng kính ngưỡng vọng hướng về đấng Đại Từ Đại Bi.
Nhưng vẫn còn một vật bị khai trừ. Họa sĩ nghe tiếng “miu miu” yếu ớt từ bếp vọng lên, và tiếng vú già đương cố dỗ dành con Tài Lộc ăn, nhưng vô hiệu. Chàng hiểu tâm trạng con mèo lắm, nó thật dễ yêu, thật hiền dịu nhưng vẫn mãi mãi bị thất sủng. Tất cả giống vật khác đều được Phật độ, và nhập Niết bàn, trừ có mèo. Chàng cảm thấy nước mắt rưng rưng lên mi.
“Ta không thể nhẫn tâm như vậy được,” chàng tự nhủ. “Nếu chư vị đại đức khước từ bức tranh, ta chịu chết đói cũng chẳng sao.”
Chàng chọn chiếc bút lông tốt nhất, nhúng vào nước, lấy mực, và con mèo được vẽ sau hết các loài vật.
Chàng gọi vú già.
“Vú hãy cho con Tài Lộc lên đây”, chàng nói. “Có thể chúng ta cam nhận thất bại, nhưng ít nhất ta cũng làm cho con Tài Lộc được hài lòng.”
Cánh cửa vừa được kéo mở, con Tài Lộc bước vào, nó chạy tới trước bức họa, và nó nhìn, và nó ngắm tưởng như suốt đời chẳng bao giờ nó được nhìn ngắm cho đã mắt như vậy. Rồi nó quay nhìn họa sĩ, ánh mắt biểu lộ niềm tri ân vô bờ. Rồi nó khuỵu xuống chết tức khắc. Nó đã quá mãn nguyện rồi, chẳng còn sống thêm một phút nào nữa.
BÀN TAY PHẬT
Sớm hôm sau khi hay tin bức họa đã hoàn tất, vị trưởng lão hòa thượng tới. Họa sĩ ra tận cửa đón chào rồi dẫn người vào xem bức họa. Hòa thượng ngắm kỹ, lâu.
“Bức họa sao mà rực rỡ”, người nói khẽ.
Khuôn mặt hòa thượng chợt nghiêm lại.
“Nhưng con vật nào họa sĩ vẽ sau rốt đây?” Người hỏi.
“Bạch hòa thượng đấy là con mèo,” họa sĩ đáp và cảm thấy lòng não nề tuyệt vọng.
“Họa sĩ há không hiểu rằng mèo đã chống lại đức Thế Tôn”, giọng vị hòa thượng càng trở nên nghiêm khắc, “không được Người độ và không thể nhập Niết bàn?”
“Dạ, bạch hòa thượng con hiểu”, họa sĩ đáp.
“Ai nấy hái lấy quả mà mình gieo nhận,” hòa thượng nói. “Con mèo phải gánh lấy hậu quả bướng bỉnh của mình, cũng như họa sĩ giờ đây vậy. Bởi chung con người không thể xóa bỏ những gì đã làm, nên ta muốn mang bức họa này về để ngày mai công khai hỏa thiêu. Sẽ có bức họa của một họa sĩ khác được treo trong chùa vậy.”
Cả ngày hôm đó vú già khóc trong bếp, vú cho rằng chính tại mình mang con mèo về mà sự nghiệp chủ sụp đổ như vậy.
Cả ngày hôm đó họa sĩ ngồi trong phòng bên bụi hoa nở hồng và suy tư. Bức họa đã được mang đi, mang theo một phần sự sống của chính chàng đặt vào đó. Mai đây chư vị đại đức sẽ thiêu nó giữa sân chùa. Chắc chắn từ nay sấp đi chẳng còn ai thèm bén mảng đến nhà chàng nữa. Tuy nhiên chàng không hề hối tiếc về điều mình đã làm. Trong bao nhiêu ngày qua chàng đã đắm hồn trong suy tư vẽ tình thương yêu cùng những gương hy sinh cao cả. Hy sinh để con Tài Lộc có những giây phút chói sáng cuối cùng đó, đâu có uổng!
Chàng ngồi suốt đêm đôi mắt thức tỉnh như vậy. Vú già không dám tới ngắt quãng dòng suy tư của chàng. Ánh bình minh lợt lạt đầu tiên đã lọt vào phòng, gió rạng đông khua nhẹ bụi hoa bên cạnh. Một giờ sau chàng nghe có tiếng ồn ào của dân chúng chạy về phía nhà chàng. Chư vị thượng tọa tới vây quanh chàng, vị hòa thượng kéo tay áo chàng.
“Xin họa sĩ hãy tới, hãy tới”, mọi người tiếp tục cùng nói. “Xin họa sĩ hãy tới, thực là nhiệm mầu! Ôi lòng từ bi của đức Thế Tôn!”
Họa sĩ theo họ, tâm hồn choáng váng, không kịp thở nữa, chẳng để ý gì quanh mình trên đường tới chùa. Tiếng reo vui vang ầm bên tai, chàng liếc thấy vú già cũng đã có mặt ở đấy, giây lưng còn sộc sệch, đám đông xung quanh ai nấy há miệng ngạc nhiên. Bức tranh của chàng treo cao ngay chính điện, đèn nến sáng trưng, hương trầm nghi ngút. Nét vẽ y nguyên như cũ, ồ mà không … kia …
Họa sĩ bỗng quỳ xuống thốt lời kêu:
“Ôi lòng từ bi của đấng Chí tôn!”
Vì chàng vừa nhận ra rằng khoảng lụa chàng vẽ con vật cuối cùng nay đã trở lại nguyên màu lụa bạch cũ tưởng như nét bút lông chưa hề một lần chạm tới. Còn hình đức Phật, hình đức Phật mà trước đây chàng vẽ nằm ngả trên giường, hai tay khoanh lại trước ngực, thì nay một cánh tay Người duỗi ra, và dưới bàn tay tế độ an lành, thanh tịnh của Người, hình con mèo nhỏ khép nép quỳ, chiếc đầu trắng xinh hơi cúi xuống trong một niềm sùng kính hân hoan.

Elizabeth Coatsworth
Doãn Quốc Sỹ chuyển ngữ
Nguồn: Việt Báo

KẺ ĂN MÀY

Võ Công Liêm chuyển ngữ

vcl ke an may

Tranh Vẽ Võ Công Liêm “Kẻ Ăn Mày”

GIỚI THIỆU: Trong phạm vi phát triển về văn chương nước Nga. Anton Chekhov phá cách đường lối xưa cũ dựng vào đó một văn phong mới lạ với những truyện không có câu chuyện, nhưng được chú ý nhiều nhất. Giọng văn trung thực và có khuynh hướng nói lên vai trò làm người ở tk. mười chín là nhịp cầu đi tới tk. hai mươi. Những sự kiện rất mới lạ có từ những gì lớn lao mà ông đã gặp trong đời. Truyên ngắn ‘Kẻ Ăn Mày / The Beggar’ được xuất bản lần đầu có tên là ‘Nishchii’ đăng trên báo Petersburg vào ngày 19 tháng Giêng 1887. Những truyện của ông viết có tính chất năng động và thảm cảnh xã hội; ngụ ý hơn là miêu tả công khai, để lại cho độc giả nhiều hình ảnh bất ngờ. Chekhov sống và thấy đều được diễn tả dưới ngòi bút trung thực và chân tình với một chất liệu luân lý đạo đức có mục tiêu rõ ràng trong mỗi tác phẩm truyện của ông. (vcl).

***

‘Bẩm ngài, xin cho một chút tình thương, ngó tới kẻ khốn cùng này, một thằng đói rách! Ba ngày nay tôi không có một hột cơm. Cũng không có nổi năm xu để thuê một chỗ nằm. Tôi xin thề trước Chúa.
Ở tám tuổi tôi học với thầy giáo làng để rồi tôi mất luôn cái nơi cần tới nó. Tôi đọa ngoạ như kẻ bị oan. Suốt cả năm trời giờ đây tôi phải có việc để làm…’
Luật sư biện hộ Khavôsốp (Skvorsov) nhìn vào cái xác xơ bần cùng, mớ tóc nâu vàng, khoát bộ mặt thảm sầu, ngu si đần độn ở nơi hắn, đôi mắt lờ đờ như kẻ say lại thêm mụn đỏ trên gò má, hình như đã gặp hắn đâu đây; nếu thật là người mà tôi đã gặp .
Tôi hiện công tác của tỉnh hạt Kaluga. Kẻ ăn mày tiến lại: ‘nhưng tôi không có một xu dính túi. Giúp tôi đi, rũ lòng thương, tôi xấu hổ phải nói điều này, nhưng; tôi buộc lòng bởi đây là hoàn cảnh’.
Đôi mắt của Khavôsốp dòm xuống đôi giày bốt to tướng của người đàn ông, một chiếc cao, một chiếc thấp, đột nhiên y nhớ ra điều gì. Coi kià; việc này đến với tôi. Tôi đã gặp hắn trước một ngày hôm qua trên đường Sadovaya. Luật sư biện hộ nói. Nhưng; hình như anh đã nói với tôi anh là học trò đã bị tống ra khỏi đó mà không có thầy giáo làng. Anh nhớ không?
‘Không! không! không phải vậy’ Người ăn mày lẩm bẩm trong miệng, đoạn lại nói. ‘Tôi là thầy giáo làng, và nếu ông muốn tôi trình giấy tờ cho mà xem’.
‘Đừng đặt bày nghe! Anh nhớ lại đi, chính anh là học trò ở trường làng, ngay cả việc tống anh ra khỏi trường. Anh không nhớ sao?’
Khavôsốp đỏ bừng mặt, quay đầu về kẻ ăn mày mà nhìn ra vẻ bỏ ghét.
‘Đây là điều không thực, thưa ngài!’. Hắn vừa khóc vừa nói. Đây là hành động lừa gạt, bịp bợm. Tôi sẽ đưa anh tới cảnh sát. Rõ khốn! Cho dù anh là kẻ cơ hàn, đói rách, việc đó không cần phải gian dối một cách vô liêm sĩ và xấu hổ’.
Như kẻ thất hồn, thất viá đẩy cửa bước vào và nhìn lấm la, lấm lét quanh dinh thự tợ như kẻ trộm.
‘Tôi . Tôi không láo’ Hắn lẩm bẩm trong miệng. ‘tôi có thể trình giấy chứng minh thư cho ông xem’
‘Ai mà tin hắn cho được?’ Khavôsốp vẫn còn tức. ‘Anh không biết rằng điều này rất là hèn hạ, lừa bịp ảnh hưởng tới tình cảm, việc này chạm tới nhà giáo và học sinh trong xã hội? Coi việc đó như dấy loạn!’
Khavôsốp mất tính hòa nhã và bắt đầu quở trách không còn thương xót kẻ ăn mày. Sự khinh suất đó làm cho người đói rách giận dữ thêm ra. Khavôsốp đánh giá ở chính ông ta một con người tốt, tâm hồn dịu dàng, lòng xót thương cho tất cả những gì bất hạnh. Đặc nó trong một sự thử thách hàng đầu với một ít vấn đề cho ông ta, như thấy ở mình thái độ bất kính người nghèo; sự đó cần trải lòng đến người cùng khổ, cần có lương tâm ở nơi ông.Trước sự lãnh đạm của người thất thế tiếp tục phản kháng cái vô tội đó, nhưng; sớm muộn sự im lặng sẽ bùng dậy mà nghĩ tới thắt cổ trong cái việc thất bại này.
‘Thưa ngài’ Kẻ ăn mày nói. Hắn đặc tay lên trái tim. ‘Sự thể là thế! Tôi – đã nói láo! Tôi chẳng phải học trò mà chẳng phải thầy giáo.Tất cả là giả tưởng. Xưa tôi hát trong ca đoàn Nga rồi hất tôi ra cho tôi là thằng rượu chè, ăn chơi trác táng. Nhưng; không còn cách gì hơn? Tôi không thể dối trá’. Không một ai cho tôi bất cứ cái gì để tôi nói lên sự thật. Với sự thật người ta có thể đói mà chết hoặc chết lạnh vì thiếu ăn. Lý lẽ đó hợp lý, Tôi hiểu, nhưng; tôi có thể làm được gì?
‘Ông làm được gì?. Anh hỏi tôi làm được gì?’ Khavôsốp hét lớn, đến gần kẻ ăn mày. ‘Làm thôi! Những gì anh làm được! Anh phải làm!’.
‘Làm –vâng , tôi biết ở chính tôi, nhưng; ở đâu để tôi tìm việc làm?’.
Chúa ơi! Ông phán xét quá đáng. Quát lên!. Kẻ ăn mày mỉm nụ cười cay đắng.
‘Ờ đâu tôi có thể tìm ra việc làm bằng tay chân?’. ‘Thiệt là quá trễ cho tôi trở nên nhân viên thư ký; bởi trong cái việc trao đổi, giao thương người ta tìm đến những người trai trẻ; không ai lại đi nhận tôi cho làm phu khuân vác hay người gác gian, mà người đó chưa một lần vào đời, và; tôi biết là không ai thuê mướn tôi đâu’.
‘Vô lý! Ông luôn luôn đứng về phiá pháp lý! Thì làm thế nào anh bửa củi cho tôi?’
‘Tôi không thể từ chối việc đó, nhưng ngồi đây dù khéo việc bửa củi mà không có cơm ăn thì cũng như không’.
Hừ ! Anh có vòng vo trong cách nói nầy nói nọ. Quá lắm; thì cũng không cần đến anh mà anh đã từ chối. Việc bửa củi dành cho tôi phải không?’
‘Dạ thưa ngài; tôi muốn’.
‘Tốt lắm. Chúng ta sẽ tìm việc để làm. Tuyệt vời – chúng ta sẽ gặp lại’.
Khavôsốp lúng túng, đôi tay run run liên tiếp; không có cảm giác gì ác ý cả để rồi bỗng dưng nhớ bửa ăn gà ngoài trời.
‘Đây! O-gà (Olga) Ông ta nói: ‘đưa người đàn ông này vào trong chòi gỗ và để cho ông ta bửa củi’.
Người hắn trông như thằng bù nhìn áo quần rách tươm, quằn đôi vai xuống như thể là hốt hoảng, phân vân điều gì sau khi ăn uống, hẳn nhiên thấy được cái sự rề rề của hắn là biết hắn không ưa việc bửa củi, vì hắn quá đói mà lại bắt làm, dễ hiểu thôi, bởi; hắn tự trọng và cả nể đấy mà, chớ thật tình hắn kẹt mà không nói nên lời. Đúng thế, hắn luôn nghĩ tới thứ rượu trắng vô-ka, cái đó làm cho sức khoẻ của hắn yếu mòn và không còn cảm giác gì để nghiêng về việc làm ăn một cách cần cù, chịu khó.
Khavôsốp vội vã đi vào phòng ăn.Từ cửa sổ người ta có thể thấy cái chòi gỗ và mọi thứ khác đổ dồn vào trong sân. Đứng bên cửa sổ Khavôsốp thấy mùi khói nấu và kẻ ăn mày ra khỏi sân vườn với cửa sau, băng qua con đường tuyết dơ để đến chòi gỗ. O-gà, nàng nhìn xoi bói, phẩn nộ vào người làm thuê, lấy cùi chỏ đẩy hắn qua một bên, không cần khóa cửa và giận dữ đá mạnh cánh cửa chòi. Rồi bỏ đi.
‘Chúng ta có thể gián đoạn khi người đàn bà đi qua với tách cà phê’ – ‘cái gì gây ra giữa lúc này’ Khavôsốp nghĩ lung tung chả đúng lúc, đúng chỗ.
Kế tới hắn thấy mình là thầy giáo giả, học sinh giả ngồi cạnh hắn trên khúc gỗ dài và bỗng nhiên nhớ tới cái nhọt đỏ trên gò má hắn đã có từ lâu. Người đàn bà chặt phụp cái rìu xuống gần chân hắn, cải cọ hết sức giận dữ với những lời lẩm bẩm trên môi, bắt đầu quở trách hắn một cách vô cớ. Kẻ ăn mày rụt rè kéo miếng gỗ nhỏ về phiá hắn, đặc giữa đôi chân và vỗ nhẹ lên chiếc rìu. Lơ lửng như muốn té xuống. Kẻ ăn mày một lần nữa kéo miếng gỗ về phía hắn, thổi nhẹ lên đôi tay lạnh cóng và gõ nhẹ lên cái rìu một cách thận trọng, hắn sợ đụng lên đôi bốt của hắn hoặc vô ý cắt đứt mấy ngón tay. Đôi đũa gỗ rơi xuống mặt đất nghe nhẹ nhàng, hắn đưa mắt nhìn.
Cơn giận dữ của Khavôsốp đã biến mất, giờ đây cảm thấy có một chút ân hận và cả thẹn bởi chính ông, vin vào những gì hư hỏng, say sưa, những đau ốm đột ngột, đẩy người ta làm việc giữa mùa giá lạnh.
‘Được, không sao’ Ông ta nghĩ vậy. Đi tới phòng làm việc ngang qua phòng ăn ‘Tôi làm đúng mà’.
Một giờ sau O-gà đến và báo cáo với Khavôsốp củi đã chất đầy trong chòi.
‘Tốt! Đưa cho hắn nửa hào Nga’ Khavôsôp nói. ‘Nếu hắn muốn trở lại để bửa củi vào ngày đầu của mỗi tháng. Thời chúng ta tìm việc cho hắn làm’.
Ngày đầu của tháng hắn đến với cái vẻ túng thiếu thì tìm việc cho hắn làm với giá nửa hào Nga, dù hắn có đứng trơ người ra năn nỉ cũng thế thôi.
Từ đó về sau hắn thường có mặt ở sân vườn; cứ thế mà kiếm việc cho hắn làm. Bi chừ thì hắn lấy xên mà xúc tuyết, rồi kêu hắn sắp củi cho ngay ngắn trong chòi, đập bụi nơi mấy tấm thảm và nệm ngủ. Cứ thế hắn nhận từ hai mươi đến bốn mươi đồng Nga và mỗi khi như thế cho hắn một đôi cái quần cũ.
Cùng lúc đó thì Khavôsốp dọn tới một nơi khác, ông ta mướn hắn phụ giúp đóng gói và chuyển một số đồ đạc. Lúc này kẻ ăn mày không còn say sưa, không còn ủ dột mà trở nên ít nói. Hắn bưng vác những thứ quá nặng và đi theo sau chiếc xe thùng chất đầy đầu, thế mà không mấy bận rộn. Hắn chỉ rùng mình vì lạnh và trở nên bối rối khi đó tay lái xe nhạo báng cho hắn lười, gã quá yếu đuối, nói chuyện tầm phào không có chi lạ ngoài cái áo khoát đẹp muốn khoe. Sau đó chuyển hết đồ mà Khavôsốp đã giao cho hắn.
‘À nè; tôi thấy lời lẽ của tôi có hiệu quả’ Biện lý nói; trong tay cầm một đồng xu Nga.’ Đây nè cho cái nhọc nhằn của anh. Tôi thấy anh có vẻ lo ngại và không phản đối việc làm. Anh tên gì?’
‘Lư-kốp’ (Lushkov).
Được, Lư-kốp; bây giờ tôi cung cấp cho anh một việc khác, công ty vệ sinh. Anh viết được không?’
‘Tôi viết được’.
Ngày mai cầm thư này đến bạn tôi và họ sẽ cho anh biết việc để làm. Làm chăm, không rượu chè, hút xách và nhớ những gì tôi dặn anh. Chào!’
Đưa anh đến đúng chỗ rồi đó. Khavôsốp vỗ nhẹ vào vai Lư-kốp một cách thân mật, nói cho ngay giúp hắn một tay đở được phần nào. Lư-kốp cầm lấy bức thư và kể từ đó không còn làm sân nhà và chòi gỗ.
Hai năm qua. Vào một buổi chiều, thấy Khavôsốp đút tay lấy vé đi xem hát, hắn nhận ra một người nhỏ nhắn đứng bên cạnh ông biện lý với chiếc áo cổ lông thú cũ kỹ và cái mũ da hải cẩu đã bạc màu. Người đàn ông nhỏ thó rụt rè hỏi người bán vé cho một chỗ ngồi dành riêng, mỗi vé thêm hai đồng hào Nga.
“Lư-kốp, anh phải không?’ Khavôsốp thốt. Có nhận ra người đàn ông nhỏ thó này trước kia cũng bửa củi. Anh khoẻ mạnh không? Anh làm gì nơi đây? Thế nào công việc đến đâu rồi?’.
‘Tốt! Bây giờ tôi là công chứng viên vô nghạch và lương tôi một tháng ba mươi lăm đồng rúp-Nga’.
‘Cảm ơn Trời! Quá qúy.Tôi sung sướng cho việc làm của anh. Tôi hãnh diện, rất hãnh diện Lư-kốp. Trong nhận thức, anh biết, anh là đứa con yêu của Chúa. Tôi đưa anh vào con đường sáng, anh biết chứ. Ê! anh nhớ không những gì nung nấu trong tôi là dành cho anh. Đôi chân tôi như muốn chôn cứng xuống lòng đất ngày đầu gặp anh hôm đó. Cám ơn, cám ơn con người già nua này cho tôi không quên những lời lẽ của tôi’.
‘Tôi cũng cám ơn anh luôn’. Lư-kốp nói. ‘Nếu tôi không đến với anh thời chắc tôi cứ cho tôi là thầy giáo hay là học sinh của ngày nay. Đúng đấy; tôi như con chim lạc bầy nay bay đến để được anh che chở, tôi lôi tôi ra khỏi điạ ngục trần gian này. ‘Tôi quá sung sướng. Quả vậy’.
‘Cám ơn những tiếng nói chân tình và việc làm. Ông nói những gì trong sáng, tốt đẹp cho đời tôi. Tôi rất biết ơn ông và dạy cho tôi mọi điều kể cả nấu ăn. Chúa sẽ ban ơn và cho anh gặp một người đàn bà đôn hậu! Ông thốt lời hay ý đẹp và tôi sẽ là người chịu ơn ông cho tới ngày nằm xuống, nhưng; nói đúng ra, đó là những gì ông cho tôi ăn. O-gà, cô ta đã cứu giúp tôi’.
‘Cái gì thế?’
‘Như thế này. Khi đầu tôi đến nhà ông ngày đầu được giao việc bửa củi, O-gà cô ta thường bắt đầu bằng tiếng nói: ‘Ôi! anh say rồi hả anh’ Ôi ! sao anh tạo ra sự khốn đốn! Không có chi nơi anh chỉ còn lại sự tồi tệ’. Cuối cùng nàng ngồi đối diện với tôi và trở nên buồn, nhìn vào mặt tôi mà khóc. ‘Ôi! anh thật là người đàn ông xui nhiều hơn may. Không có gì làm anh hài lòng trong thế giới này và ở đây sẽ là không trong cái thế giới anh đến. Tất cả là không. Anh là thằng nghiện ngập! Anh sẽ xuống điạ ngục. Ôi chao! anh là thằng bất hạnh’. Và rồi nàng sẽ gánh vác hết thảy. anh biết rồi đó, nó nằm trong trạng thái căng thẳng. Tôi không nói cho nàng biết bao nhiêu bí ẩn và khổ đau, biết bao nhiêu nước mắt và mồ hôi nàng đã đổ xuống trong công việc của tôi. Những việc chính, nàng còn bửa củi cho tôi. Thưa ngài, ông có biết bửa củi tôi chẳng bẻ một que nhỏ cho ông, chớ đừng nói bửa? Nàng O-gà làm hết thảy. Tại sao nàng cứu giúp tôi, tại sao tôi thay đổi, tại sao tôi bỏ uống rượu, dưới mắt nàng tôi không thể giải thích. Tôi chỉ biết rằng, nợ nàng những lời ăn tiếng nói và việc làm cao thượng, một thay đổi chiếm cứ hồn tôi. O-gà đưa tôi đến con đường ngay thẳng và tôi sẽ không bao giờ quên. Để rồi; đến lúc bắt đầu đi; đi tới cái chuông đang dộng từng hồi. Lư-kốp cúi đầu chào và rời khỏi chỗ dành ưu tiên trong rạp hát ./.

VÕ CÔNG LIÊM (ca.ab.yyc . 1 tháng 6/2020)

*’Kẻ ăn mày/The Beggar’ Trong tuyển tập của Anton Chekhov (1860-1904). Nhà văn, nhà viết kịch sanh ở Nga và chết ở Đức.
Nguyên bản tiếng Anh của Joe Andrew by Wordworth Classics. Võcôngliêm chuyển sang Việt ngữ.
TRANH VẼ: ‘1943’ Khổ 15” X 25” Trên giấy cứng. Acrylics+India-ink+House-paint. Vcl#1552017.

1943

NGƯỜI ĐÀN ÔNG BẤT LỰC

– Trích trong ĐIỀM YẾU CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG HIỆN ĐẠI của Đặng Xuân Xuyến ; Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin ; 2006 –

vcl-asu khi tam

TRANH VẼ Võ Công Liêm: ‘Sau khi tắm / After bath’

*
David Reuben, bác sỹ tâm lý ở California đã viết: “Hơn bất cứ sự cố gắng nào khác của con người, tình dục ở nam giới là một trò chơi của sự tự tin.”. Hay hiểu nôm na thì “chất lượng” của hoạt động tình dục là “chứng chỉ” về sức mạnh của người đàn ông. Vì thế mà không ít đấng mày râu luôn trăn trở một câu hỏi: Làm thế nào để chứng tỏ được nam tính của mình khi cuộc sống hiện đại với vòng quay hối hả, gấp gáp, với những cạnh tranh, toan tính…. đã làm không ít người đàn ông luôn trong tình trạng bị stress, dẫn đến những rối loạn trong hoạt động tình dục, mà trong số đó là sự rối loạn về sự cương dương, tức bất lực trong quan hệ vợ chồng.
Vậy bất lực là gì?
Là sự rối loạn cương dương, khiến người đàn ông khó đạt được sự cương cứng hoặc mất (một phần hoặc hoàn toàn) khả năng duy trì dương vật trong trạng thái cương cứng để có thể tiến hành hoạt động tình dục bình thường.
Qua các cuộc thăm dò dư luận và những nghiên cứu của các nhà khoa học tình dục trên thế giới, người ta đưa ra kết luận: “Gần 40% đàn ông luôn ám ảnh sợ bất lực trong quan hệ vợ chồng. Trong các cuộc tào lao, tán gẫu của các đấng mày râu, “chuyện ấy” được đưa ra bàn luận nhiều nhất, và thành tích được phóng đại lên gấp nhiều lần. Người đàn ông có thể chấp nhận bị người khác chê cười vì yếu kém trong công việc, chậm hiểu trong tiếp thu nhưng họ không chấp nhận bị người khác chê cười về khả năng “truyền giống” của mình. Tố chất của người đàn ông, theo họ quan trọng là phải mạnh mẽ về “chuyện ấy”, nếu không thì khác gì chú gà tồ công nghiệp.
Các nhà khoa học tình dục khẳng định: Bất kỳ người đàn ông nào cũng có thể lâm vào tình trạng khó khăn trong quan hệ tình dục. Một số gặp phải lúc còn trẻ, một số gặp phải khi ở tuổi tứ tuần, còn số khác thì có khi cả đời. Nguyên nhân chính dẫn đến sự “trục trặc” trong đa số các trường hợp là do “rối loạn” trong hệ xung động thần kinh, xuất phát từ bộ não, được gọi là vấn đề về chức năng hay gọi nôm na là “rối loạn tình dục”.
Căng thẳng, bồn chồn và thiếu tự tin vào sức mạnh “đàn ông” của chính mình khi “xung trận” là kẻ thù số một tạo nên chứng bệnh rối loạn tình dục ở đấng mày râu. Bên cạnh đó, sự chai lỳ trong cảm xúc, sự rạn nứt trong tình cảm vợ chồng cũng là nguyên nhân dẫn đến chuyện “trên bảo dưới không nghe” của người đàn ông. Một ví dụ được dẫn chứng dưới đây sẽ minh chứng cho lời kết luận vừa rồi.
Đức Minh, một chàng trai hoàn toàn khỏe mạnh. Anh yêu Hoa Vinh và cưới nàng từ một tình yêu chân thật. Ban đầu, Đức Minh nghĩ chỉ yêu cho đời thêm hương vị nhưng rồi anh đã bị Hoa Vinh chinh phục. Từ quen biết đến hôn nhân chỉ một quãng thời gian rất ngắn, họ chưa có điều kiện để thật sự hiểu về nhau nên cuộc sống gia đình sớm rạn nứt.
Ban đầu, Đức Minh nghĩ, sống với nhau những khiếm khuyết của hai người sẽ được khắc phục và anh tin sự ràng buộc của “tình chồng nghĩa vợ” chắc hẳn cuộc hôn nhân sẽ không đổ vỡ. Nhưng cuộc đời biết bao điều bất ngờ, Hoa Vinh còn quá trẻ, trong khi tuổi tác của Đức Minh sắp bước vào tuổi tứ tuần nên hai người không thể có tiếng nói chung về sở thích, nhu cầu và bao điều khác.
Vốn dĩ là cô gái hư hỏng, ham vui trong các cuộc chơi tình ái nên nhu cầu “chuyện ấy” của Hoa Vinh khác hẳn mọi người. Dù mới lấy chồng, được chồng nâng niu chiều chuộng nhưng Hoa Vinh vẫn “rong ruổi” cùng dăm bảy tình nhân trong các cuộc chơi thác loạn. Tiếng xấu về Hoa Vinh trước và sau ngày cưới đến tai Đức Minh ngày thêm nhiều, khiến anh không thể yêu Hoa Vinh được nữa.
Trong một lần quan hệ, Đức Minh không thể làm được, Hoa Vinh nhìn anh như nhìn kẻ xa lạ. Dướn đôi mắt mỏng như sợi chỉ, Hoa Vinh buông lời giễu cợt: “Đức Minh à! Anh có phải là thằng đàn ông không đấy? Anh bị pêdê à?” Đức Minh cảm thấy mình bị xúc phạm. Anh hận Hoa Vinh. Anh căm thù cuộc hôn nhân không xứng tầm mà anh đã ngu muội để thiên hạ xỏ mũi dắt vào. Một thằng đàn ông tài hoa, tử tế như anh mà lấy phải người vợ nhem nhuốc về nhân cách đã là sự trả giá không đáng có, giờ lại phải nghe những lời hỗn hào của Hoa Vinh làm anh suy sụp.
Bẵng đi chừng sáu tháng, trong một lần bị ma men quấy nhiễu, anh đã nghe bạn xấu tìm đến chốn đèn mờ. Trước lúc “xung trận”, anh rất tin tưởng vào sức mạnh nam nhi của mình nhưng khi nhìn thấy khuôn mặt bì bì, câng câng và đôi mắt ti hí hệt giống mắt Hoa Vinh, Đức Minh phát hoảng…. Tiếng cười khinh bỉ, nhạo báng của gái lầu xanh như nhát dao cắm ngập vào tim. Minh cắm đầu chạy trốn. Minh đau đớn tin rằng anh là kẻ có “vấn đề rất nặng về sinh lý” nên đã về nhà nằng nặc làm đơn ly dị vợ.
Chúng tôi xin trích dẫn thêm một trường hợp dưới đây để bạn đọc tham khảo, lưu ý rằng: Một trong những nguyên nhân phá vỡ chức năng tình dục của đàn ông còn do tính khiếm nhã, bất lịch sự của bạn tình.
Phương Gia, 34 tuổi, than phiền với bác sỹ tâm lý về chứng “trên bảo dưới không nghe” của mình. Trước năm 26 tuổi, anh không có vấn đề gì về tình dục. Năm 26 tuổi, lần đầu anh quan hệ với phụ nữ và người bạn tình đó không hài lòng về khả năng “chinh chiến” của anh… Vào một buổi sáng, khi cô gái nằng nặc đòi “chuyện ấy”, vì mệt nên anh không thể đáp ứng được, cô gái liền mắng anh là đồ đàn ông mặc váy… Anh hốt hoảng, bắt đầu tìm đọc những cuốn sách y học về giới tính và tình dục. Trong mười năm qua, anh có “gần” hai phụ nữ và những lần quan hệ ấy anh chẳng làm được “cơm cháo” gì… Bác sỹ đã trấn an, cam đoan “chuyện ấy” của anh hoàn toàn bình thường và giải thích những trường hợp như anh là hiếm thấy trong cuộc sống tình dục đối với lứa tuổi này.
Bác sỹ chỉ ra nguyên nhân thất bại của Phương Gia chính là tình trạng về tâm lý thần kinh: Mỗi lần thất bại khi quan hệ vợ chồng, sự lo âu và suy sụp tinh thần của người đàn ông lại tăng thêm, điều này sẽ dẫn đến thất bại cho lần sau. Khi người đàn ông tin rằng họ bị bệnh thì nỗi sợ hãi về tính nam (tính đực) của mình càng tăng lên, khả năng tình dục vì thế càng trở nên kém cỏi. Họ sợ hãi thời khắc sẽ bị bạn tình chế nhạo, và trong thâm tâm cảm thấy lòng tự trọng của người đàn ông bị tổn thương, họ run run không tin vào khả năng hoàn thành nhiệm vụ “truyền giống” của mình. Lúc đó, sẽ xuất hiện một nghịch lý: Khi người đàn ông càng ham muốn “chiếm đoạt” bằng được bạn tình thì càng có nhiều khả năng trong khoảnh khắc quan trọng nhất họ lại không thể làm tròn “bổn phận” của người đàn ông.
Chúng ta đọc lại quan điểm của bác sỹ Hồ Đắc Duy (Thái độ của vợ đối với chồng bị bất lực) để hiểu rõ hơn về những nguyên nhân bất lực trong chuyện “chăn gối” của người đàn ông:
“- Y học đã khám phá 75% bệnh nhân bị liệt dương đều có một nguyên nhân thực thể như bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, xương khớp, do stress, lão hóa, rượu, thuốc lá hay thuốc men…
– Nguyên nhân tâm lý thuần túy chỉ chiếm 25%. Tuy nhiên vấn đề tâm lý luôn là yếu tố quan trọng trong tất cả mọi nguyên nhân gây ra tình trạng bất lực tạm thời hay bất lực tuyệt đối. Thực tế cho thấy trong mọi nguyên nhân bất lực luôn luôn có đi kèm nguyên nhân tâm lý.”
Đi tìm căn nguyên sự bất lực của người đàn ông trong sinh hoạt vợ chồng, các nhà khoa học tình dục còn liệt kê một loạt nguyên nhân khác:
– Anh ta từng thất bại trong chuyện ân ái nên lo sợ sẽ tái diễn tình trạng “trên bảo dưới không nghe”.
– Anh ta e ngại sẽ không làm cho vợ đạt tới cực khoái.
– Anh ta quá mệt mỏi vì công việc, vì stress trong cuộc sống nên không còn hứng thú với chuyện “vợ chồng”.
– Anh ta thất vọng về cách ứng xử hoặc khiếm khuyết về hình thức của bạn tình.
– Anh ta mặc cảm về những lỗi lầm trong quá khứ, về những khiếm khuyết trên cơ thể mình…
Tóm lại, rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất lực của người đàn ông trong “chuyện vợ chồng”. Để “khôi phục” sức mạnh đàn ông không phải một sớm một chiều mà là cả một thời gian dài, với sự phối hợp tận tình, bền bỉ của người vợ, bạn tình.
Bàn về thái độ của người vợ đối với chồng bị bất lực, bác sỹ Hồ Đắc Duy viết: “Chia xẻ ước muốn tình dục với người hôn phối của mình là chuyện tự nhiên, cũng là sự tôn trọng lẫn nhau. Trao đổi để biết bạn tình của mình muốn hay không muốn điều gì trong quan hệ tình dục, còn hơn là thái độ chịu đựng lẫn nhau để dần dần xa lánh vì hiểu lầm, định kiến hay bất đồng quan niệm trong vấn đề chăn gối.”
Các chuyên gia còn khẳng định: Trong số 100 người bị liệt dương, trên thực tế có đến 99 người hoàn toàn khỏe mạnh. Nguyên nhân đẫn đến sự “trục trặc” là vì lo sợ thất bại và không thú thật với bạn tình về sự căng thẳng xuất hiện trước khi “vào trận”, hoặc quá đơn điệu trong mỗi lần “sinh hoạt” vợ chồng, dẫn đến sự nhàm chán, từ đấy nảy sinh sự cáu bẳn, miễn cưỡng của người “lâm trận”, gây nên chứng rối loạn tình dục (bất lực) ở người đàn ông.
Bên cạnh sự bất lực thông thường (dương vật không thể cương cứng khi sinh hoạt vợ chồng) thì bệnh xuất tinh sớm (là hiện tượng phóng tinh ở dương vật trước khi đưa vào âm đạo hoặc vừa đưa vào trong thời gian ngắn) cũng làm khổ không ít đấng mày râu trong việc gìn giữ hạnh phúc gia đình. Những người mắc chứng xuất tinh sớm dù dùng kỹ thuật nào cũng không thể thực hiện được một cuộc sinh hoạt tình dục đến đích, làm cho cả hai không được thỏa mãn tình dục..
Xin trích dẫn hai câu chuyện về sự “bất lực nửa vời” trong “chuyện ấy” của người đàn ông đã ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình như thế nào?
Trung Hiếu là một doanh nghiệp trẻ, thành đạt. Anh cưới vợ khi tuổi gần 40 nên rất yêu chiều vợ. Nhìn vào anh, không ít thiếu nữ mơ ước sau này đức lang quân của mình được như vậy. Trong những cuộc chuyện trò, họ thường ca ngợi Kiều Trang là người may mắn, hạnh phúc vì lấy được ông chồng đẹp trai, tài giỏi, lại hết mực yêu chiều vợ. Họ đinh ninh rằng, đôi vợ chồng Trung Hiếu – Kiều Trang sẽ hạnh phúc viên mãn nhưng họ không thể ngờ sau một năm, đôi “trai tài gái sắc” ấy lại đưa nhau ra tòa với lý do không hợp nhau trong cuộc sống. Tất cả mọi người đều trách Kiều Trang là “lú lẫn”, “có voi đòi tiên”… Họ đâu biết rằng, Trung Hiếu “chưa đi đến chợ đã tiêu hết tiền”. Dù cố gắng rất nhiều, trấn an và động viên nhau rất nhiều nhưng chàng Hiếu vẫn “không chịu tiến bộ”. Rốt cuộc Kiều Trang buộc nói lời chia tay, chấp nhận lời thị phi, chê trách của mọi người.
Mạnh Hùng cũng vậy. Anh là người đàn ông đầy sung mãn về sức lực nhưng trong chuyện “vợ chồng” anh lại là kẻ “thiếu vốn trầm trọng”. Mỗi lần hưng phấn, anh không làm chủ được mình nên tất cả mọi “yêu thương” anh không thể làm cho vợ toại nguyện. Dù rất yêu chồng nhưng Hoài Thu cũng không thể kéo dài cuộc sống gia đình với Mạnh Hùng. Ban đầu, Thu cố trấn an Hùng, động viên và mua sách báo về cho chồng tham khảo nhưng Hùng vẫn “vung vãi vốn liếng khi chưa vào đến chợ”. Cô thất vọng, buồn bực rồi luôn bẳn gắt với chồng. Cô càng ngày càng đau khổ và chán ghét cuộc sống vợ chồng. Một bận, cơ quan Thu tổ chức đi du lịch, tình cờ Thu gặp lại người bạn trai thời đại học…. Người vừa bỏ vợ, kẻ đang chán chồng, chỉ sau một hồi hàn huyên về kỷ niệm thời sinh viên, họ đã quấn quýt lấy nhau như là định mệnh. Sau chuyến du lịch đó, Thu làm đơn ly dị.
Bên cạnh các nguyên nhân dẫn đến chứng rối loạn tình dục nêu trên, một nguyên nhân nữa dẫn đến sự bất lực “chuyện ấy” của cánh mày râu là sự thay đổi kích thích tố nam và kích thích tố nữ trong cơ thể người đàn ông. Các bác sỹ chỉ ra rằng: Khi người đàn ông bước vào ngưỡng tuổi 40 – 45, sự thay đổi về tâm sinh lý sẽ làm không ít người đàn ông “mạnh mẽ” phải giật mình lo sợ vì khả năng “chuyện ấy” của mình bị suy giảm trầm trọng.
Trong những nguyên nhân dẫn đến chứng bất lực của người đàn ông, các nhà tâm lý tình dục cũng liệt kê tới thủ phạm là rượu, thuốc lá và các loại chất kích thích khác như café, trà… Thậm chí, quá khứ từ người hôn phối cũng tác động làm cho “chuyện ấy” của người đàn ông trở nên có “vấn đề”.
Câu chuyện trục trặc về “chuyện ấy” của Khôi Nguyên là một ví dụ cho nguyên nhân mới nghe qua tưởng rất buồn cười này.
Khôi nguyên dọn đến ở chung với Lệ Quyên, bất chấp sự phản đối quyết liệt của gia đình. Vì tình yêu, anh chấp nhận tất cả, miễn sao được sống cùng người anh yêu. Khi Lệ Quyên có thai, anh rất vui vì tình yêu của anh đã đơm trái ngọt, nhưng thật buồn, vì không chịu được cuộc sống thiếu thốn, vất vả, Lệ Quyên đã bỏ anh theo người đàn ông khác. Anh đau khổ, mất niềm tin vào tình yêu từ đấy.
Năm tháng trôi đi, đến cái tuổi mà anh không thể “lừng khừng” chuyện hôn nhân được nữa, vết thương lòng cũng đã nguôi ngoai, anh mới tạm gác chuyện làm giàu để tìm người đắp xây hạnh phúc. Qua mai mối, anh lên “xe hoa” với người phụ nữ kém anh mười tuổi. Trước ngày cưới, anh nhận được vô khối lời “nhỏ to” của thiên hạ về tư cách vợ mình nhưng anh vẫn tin người vợ tương lai của mình sẽ không như vậy, mà nếu có đúng vậy thì anh tin với tấm chân tình của mình, vợ anh sẽ thay đổi nên anh vẫn y án theo kế hoạch của “bên nhà”. Lấy nhau được vài tháng, cô ta đã trổ hết thói hư tật xấu của mình: Coi tiền quan trọng hơn tất cả, hồn láo với chồng, chị chồng, bố chồng… Khôi Nguyên đau đớn nhận ra anh là nạn nhân của cuộc hôn nhân đầy toan tính.
Khi mang bầu đứa con đầu lòng, cô ta bỏ nhà đi đêm với gã nhân tình nghiện ngập. Khôi Nguyên cay đắng ngộ ra tình yêu của anh đã trao nhầm đối tượng. Ngu muội lấy nhầm người vợ không xứng với mình về hình thức, nhân phẩm vậy mà anh còn nghe lời đe dọa từ cô ta: “Anh dám cư xử với tôi như vậy à? Rồi anh sẽ phải ân hận!” …. Nhiều lúc anh đã cố ngụy biện cho lỗi lầm của vợ nhưng cứ mỗi lần nhìn thấy khuôn mặt câng câng, cùng giọng nói ken két của vợ và nhất là khi nghĩ tới bản chất coi đồng tiền là trên hết của vợ làm anh hoảng loạn. Anh đã cố gắng quên đi những chuyện quá khứ của vợ, nhưng mọi cố gắng của anh đều trở thành vô vọng: Anh vẫn “hãi sợ” khi nhìn thấy vợ, thậm chí còn hoảng hốt khi vô tình nghe mọi người bàn luận về chuyện vợ chồng con cái của họ đằm thắm yêu thương. Miệt mài kiếm tiền, cung cúc lo lắng cho cuộc sống của vợ con được no đủ, Khôi Nguyên đã thực sự trở thành người đàn ông tàn phế.
Tìm hiểu về nghề nghiệp của những NGƯỜI ĐÀN ÔNG BẤT LỰC, người ta thấy đầy đủ các tầng lớp, độ tuổi (nhưng phần nhiều ở lứa tuổi sau 40) trong xã hội nhưng trớ trêu một điều là những người “lao động trí óc”, những người làm công tác văn phòng, những doanh nhân… lại chiếm tỷ lệ mắc chứng bất lực khá cao. Sự nhạy cảm, tính quyết đóan, lòng tự tin trong công việc của những người đàn ông này không giúp “sức mạnh nam nhi” của họ vượt trội, trái lại còn tiềm ẩn những nguy cơ làm giảm hưng phấn khi “gần gũi” bạn tình, dẫn đến sự bất lực tạm thời, hoặc bất lực tuyệt đối về “chuyện ấy” khá trầm trọng so với những người đàn ông ít phải dùng đến “trí óc” trong công việc.
Công bằng mà nói, những người lao động trí óc, nhất là những doanh nhân thường được xã hội quan tâm, trân trọng bởi những cống hiến của họ cho xã hội, thế nhưng do làm việc trong môi trường mang tính cạnh tranh cao nên họ dễ rơi vào tình trạng tinh thần căng thẳng kéo dài. Quan niệm về một người khỏe mạnh phải được hiểu là người không bệnh tật, không âu lo, phiền muộn (stress) nhưng những người thuộc nhóm đối tượng này đâu có được sự thoải mái về tinh thần?
Chính những âu lo, trầm cảm, mà y học gọi chung là yếu tố tâm lý, đã chi phối, ảnh hưởng mạnh tới “chất lượng” của người đàn ông trong sinh hoạt vợ chồng. Hơn nữa, với đặc tính của công việc, họ cũng rất dễ rơi vào tình trạng: Mải miết với công việc mà sao nhãng việc chăm lo sức khỏe của mình; lạm dụng các chất kích thích như thuốc lá, bia rượu… để giải quyết những căng thẳng của công việc nên dẫn đến nhiều nguy cơ bệnh lý nguy hiểm như tiểu đường, cao huyết áp… Tất cả những yếu tố đó đều là nguyên nhân gây nên sự sụt giảm ham muốn, dẫn đến việc “sinh hoạt vợ chồng” bị thất bại…..
Hỡi người đàn ông hiện đại, nếu chẳng may lúc nào đó trong cuộc đời, xuất hiện sự trục trặc về “chuyện ấy”, xin đừng bi quan, căng thẳng, mà hãy lẳng lặng tìm hiểu nguyên nhân để tự chữa trị điều sợ nói ra của bản thân mình. Hơn ai hết, chàng phải thật sự là người khỏe mạnh mới đem lại hạnh phúc cho chàng và cho chính những người thân yêu của chàng!
Hỡi người đàn ông hiện đại, chàng có làm được điều đó không?

QUA SÔNG DÌM ĐÒ

Đặng Xuân Xuyến

uminh4-tram

(Trích trong MƯU LƯỢC GIÀNH CHIẾN THẮNG của Đặng Xuân Xuyến, xuất bản lần đầu năm 1998)
*
Những người có kinh nghiệm, khi đi xa không bao giờ lại coi chuyến đi cứ phải tay mang vai vác để đèo thêm vất vả; họ biết mang theo cái gì để chuyến đi gọn gàng, nhanh chóng mà mục đích chuyến đi vẫn hoàn mỹ. Những thứ không còn tác dụng, giữ lại vừa chiếm chỗ, vừa mất công sức bảo quản, vừa chịu những chi phí không đáng có mà lại trở thành gánh nặng tinh thần, tâm lý thì quả là không có lợi ích gì. Thương trường cũng vậy, tất cả mọi sự ôm đồm, sự quá tải đều đem đến thất bại, tạo thêm những cản trở trên bước đường đi tới thành công.
Ngạn ngữ có câu: “qua sông dìm đò” là khuyến cáo hãy biết vất bỏ những thứ đã không còn cần thiết, không còn giá trị, để bớt đi những băn khoăn, những phiền hà sau này. Mặc dù “con đò” của bạn có đẹp, có quý giá nhưng nay nó không còn cần cho bạn nữa, nó đã trở thành gánh nặng cho bạn thì bỏ đi là đúng, có gì phải tiếc nuối. Hơn nữa, nếu để lại “con đò”, bạn không những đèo thêm gánh nặng mà “con đò” rất dễ trở thành nhịp cầu cho kẻ khác bước qua, đạp lên bạn để bước tới thành công. Cho nên “qua sông dìm đò” để tránh phiền hà về sau là điều không thể không biết, không thể không làm.
Văn Chủng cùng Phạm Lãi phò tá Câu Tiễn hết lòng vậy mà khi diệt được Ngô, trả thù cho tông miếu tổ tiên xong Câu Tiễn liền quay sang tiêu diệt những trung thần, đã từng nếm mật nằm gai, vào sinh ra tử giúp Câu Tiễn mộng thành danh toại. Văn Chủng vì không nghe lời Phạm Lãi: “Vua Ngô có nói: Giống thỏ đã hết thì chó săn tất bị mổ, địch quốc đã diệt thì mưu thần cũng chẳng còn, ngài không nhớ hay sao? Vua Việt môi dài mỏ quạ là người nhẫn tâm mà ghét kẻ có công. Cùng ở lúc hoạn nạn thì được, nếu ngài không đi tất có tai vạ”, nên dẫn đến cái chết thê thảm, tự kết thúc cuộc đời lừng lẫy chiến công bằng lưỡi kiếm oan nghiệt.
Chúc Lâu, thanh kiếm năm xưa Phù Sai đưa cho Ngũ Viên để Ngũ Viên “tự xử” thì giờ đến lượt Câu Tiễn đưa cho Văn Chủng nối gót tiền nhân. Xét cho cùng thì Câu Tiễn không đáng bị nguyền rủa như một số nhà bình luận đã lớn tiếng vì ông ta là một ông vua, ông ta phải lo giữ cơ nghiệp cho mình, cho con cháu được nối đời ngồi trên ngai báu. Có vậy mới là hoạt động chính trị, nếu không thì làm sao có một Câu Tiễn làm bá chủ phương Đông suốt 27 năm ròng. Có trách, có thương thì hãy trách, hãy thương Văn Chủng, tại sao ông lại không hiểu một câu danh ngôn rất đời thường, rất đơn giản: QUA SÔNG DÌM ĐÒ mà hiện thân ông chỉ là CON ĐÒ đưa Câu Tiễn QUA SÔNG!
Doanh nghiệp hiện đại cũng không thiếu những trường hợp mà chủ doanh nghiệp buộc phải dùng kế QUA SÔNG DÌM ĐÒ để bảo vệ cơ nghiệp của mình, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Chắc bạn sẽ không ngạc nhiên khi doanh nghiệp A liên kết với doanh nghiệp B để loại bỏ doanh nghiệp C ra khỏi thương trường, cùng nhau xưng hùng xưng bá nhưng rồi chẳng bao lâu hai doanh nghiệp đó lại đối đầu với nhau để loại bỏ ảnh hưởng của nhau trên thương trường. Hơn một lần tôi đã lưu ý: Trong thương trường không bao giờ tồn tại vĩnh cửu mối liên doanh liên kết, tất cả những công cuộc kinh doanh mà các doanh nghiệp bắt tay hữu hảo với nhau chỉ là mối quan hệ tạm thời khi mà các doanh nghiệp đó nếu đứng riêng rẽ, tách biệt hẳn ra sẽ không đủ lực để chi phối thị trường, làm chủ được thị trường. Người ta chỉ có thể liên kết liên doanh với nhau ở một chừng mực nào đó, hoặc ở hai thị trường cách biệt thì mới hy vọng mối liên kết đó tồn tại với thời gian khả quan hơn.
Công việc hàng ngày của bạn cũng vậy! Những gì mà bạn cảm thấy không cần thiết, không còn tác dụng nữa, nếu giữ lại chỉ làm cho thêm nặng gánh thì khuyên bạn đừng ngại ngần gì mà trút bỏ đi.
QUA SÔNG DÌM ĐÒ không có nghĩa bạn chỉ quan tâm tới các doanh nghiệp khác, các trợ lý của bạn đã giúp bạn thành công mà ngay cả bản thân bạn cũng cần phải dìm đi những gì không còn giá trị thực tế. Điều tôi muốn lưu ý bạn là hãy học Câu Tiễn nhưng đừng bắt chước Câu Tiễn, vì nếu như vậy bạn sẽ trở thành kẻ cô độc, đơn phương độc mã suốt lộ trình doanh nghiệp thì hỏi rằng doanh nghiệp của bạn có còn tồn tại?
Ngày mới vào nghiệp, sau mỗi lần một cuốn sách ra đời, tôi thường bảo quản rất kỹ bản thảo, đóng gói cẩn thận, niêm phong tất cả vào tủ. Và chiếc tủ sách của tôi ngày càng chật cứng những trang bản thảo đã được in thành sách. Cậu em tôi mỗi lần vào phòng đều cằn nhằn: – “Khi sách đã ra rồi thì những trang bản thảo này có còn giá trị gì? Sao anh không hủy đi cho rộng nhà, đỡ tốn thời gian bảo quản? Theo em nếu có giữ thì chỉ giữ lại bản thảo đầu tay để làm kỷ niệm, còn tất tật đã ra sách rồi thì gửi bà đồng nát giữ hộ. Cứ theo đà này thì 10 năm sau anh sẽ chẳng làm được gì cả vì anh đã trở thành tù binh của đống bản thảo này. Anh thật là ngớ ngẩn!” Giờ thì tôi công nhận cậu em tôi đã nói đúng.
Những ví dụ trên rất nhỏ nhưng bạn có thể rút ra được một điều: Có thể bạn có những đồ vật quý giá nhưng đã lỗi thời, đã hết tác dụng mà bạn vẫn thấy quý giá như vàng bạc, không muốn vứt bỏ thì cuối cùng những đồ vật ấy sẽ trở thành gánh nặng cho bạn.
Nếu cứ bị ràng buộc, day dứt bởi những thứ đã lỗi thời, vô dụng thì quả là không thông minh. Sớm giải thoát những vấn vương, vứt bỏ những thứ vô dụng thì cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn, sớm đạt thành công hơn. Cho nên, lần nữa tôi lưu ý với bạn: QUA SÔNG DÌM ĐÒ là điều không thể không biết, không thể không làm.

PHẠT TAXI

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

taxi

Giữa tháng chạp năm ngoái (2012), lão về quê xem nhà cửa làm đến đâu rồi thì ngang đường – đoạn rẽ phố Nối về Thành phố Hưng Yên, thuộc địa phận huyện Mỹ Hào (đoạn đi tắt để ra bùng binh về huyện Ân Thi) – bị mấy anh công an giao thông tuýt còi đòi kiểm tra giấy tờ. Lái xe trình đủ các loại giấy tờ theo yêu cầu.

Không bắt lỗi về giấy tờ được, mấy anh công an nghiêng nghiêng ngó ngó vào trong xe, rồi anh lớn tuổi nhất đám hất hàm hỏi tài xế:

– Sao taxi lại chở chăn?

Lái xe nhăn nhó (có lẽ vì bực):

– Đó là hành lý của khách, có thuộc nhóm hàng cấm đâu mà em không được phép chở.

Một anh công an khác, quãng 30 tuổi, nheo mắt nhìn lái xe, gằn giọng:

– Mày là thằng lái xe mà thích nói chuyện luật pháp nhỉ? Đ.M! Mày có biết thế nào là nhóm hàng cấm không?

Lái xe cố nhã nhặn:

– Em không nói luật mà chỉ trả lời câu hỏi của các anh là sao xe của em lại chở chăn.

Anh công an ít tuổi nhất lấy chân đá đá vào đống chăn, hất hàm:

– Đ.M, chở đéo gì mà lắm chăn thế, những 5 cái cơ à?

Lái xe cau có:

– Anh đá chăn như thế bẩn chăn của khách, em lại phải đền cho khách đấy.

Không trả lời lái xe, anh công an ít tuổi nhất nhảy phắt lên xe, lơ lơ láo láo, ngó ngó nghiêng nghiêng một chặp rồi bắt lỗi lái xe tại sao không có bình chống cháy, đòi phạt “nóng” (không lập biên bản) 1 triệu đồng. Lái xe lật đống chăn, lôi bình chống cháy ra thì anh công an lớn tuổi nhất sầm mặt lại, chửi:

– Đ.M! Bình này có đúng chủng loại đéo đâu! Mày dùng để đối phó à?

Xin xỏ một hồi không được, lái xe mới bấm máy gọi cho ai đó (chắc sếp lớn) rồi chuyển máy cho anh công an nhiều tuổi nhất.

Dạ dạ vâng vâng rối rít, anh công an lớn tuổi nhất quay ra ngọt nhạt với lái xe:

– Thế mà em không nói trước. Thôi, em lên xe đi. Bọn anh cũng chỉ là thi hành nhiệm vụ thôi mà.

*.

Hà Nội, ngày 21 tháng 01 năm 2013

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

XÁC CẬU

Phạm Nga

thumbnai1l

1.

Cô gái đang ngồi bỗng ngã người nằm ngữa trên chiếc chiếu rách, hai chân co lên, rồi dễ dàng kéo một bàn chân lên miệng để mút ngón chân cái. Mấy người đàn bà nảy giờ ngồi xung quanh cô gái, kể cả các mụ hung dữ, nanh nọc nhất, đồng loạt khúm núm cúi đầu, như tự thu nhỏ mình lại trước một sức mạnh vô hình và thì thào “Cậu về! Cậu về rồi!”. Họ chấp tay, lầm bầm khấn vái, có người khóc lóc, sụp lạy…

Từ bên sân nhà mình nhìn sang, hắn hiểu ngay là cô gái vừa không còn là chính mình nữa mà đã biến thành xác. Theo bà con ở đây, có một hồn ma rất thiêng của một cậu bé trai tên Yến đã chết vào thời nào không rõ. Cậu đã chọn xác để nhập vào mà cứu-nhân-độ-thế, được một thời gian thì lại có tin truyền rằng Yến đúng ra là một hoàng tử chứ không phải con nhà dân dả nên bà con lại càng thần phục: Cậu Yến thăng lên thành Cậu hoàng Yến.

Cậu, vẫn nằm ngữa, bắt đầu đớt đát nói tiếng trẻ thơ, nghe khi được khi không. Lập tức bà Sáu chủ nhà “dịch” lại bằng giọng ồ ề của bà, nghe cũng rất mệt. Rằng cậu đã nói chỉ một tâm cứu nhân độ thế, không màng lợi lộc nên mấy ông cốc bà cốc không nên cúng lễ vật, tiền bạc làm gì. Rằng con nữ kia đừng buồn chuyện thằng chồng đi lấy bậy nữa, cứ lo tu nhân tích đức đi, từ từ cậu sẽ dạy cho nó tỉnh ngộ mà quay về với vợ con. Rằng bá gia cứ tiếp tục tu trì, làm việc thiện và nhớ đừng nghe lời ai hết! Nghe hôn?…Mọi người, tức là bá gia, cứ việc cúi đầu dà dà, dạ dạ liên tục. Nhưng không biết cậu sẽ nghĩ gì, dạy gì khi biết được ở rất gần “giảng đàn” của cậu, đang có gã nhà hàng xóm đứng khuất bên kia dãy hàng rào bông bụp, vô cùng nghịch đạo vô lễ bởi hắn không hề kính cẩn lắng nghe cậu dạy mà chỉ chăm chăm ngó vô háng của xác.

Khách quan mà nói, xác tức con nữ có tên là Gái hay tên gì khác cũng không đáng để ai quan tâm vì đã nói, một khi được làm xác của cậu thì cô ta không còn bản ngã, nhân cách, tên tuổi riêng gì nữa. Cũng từ đây, vào lúc bình thường nghĩa là những khi không có cậu nhập, mọi người đều trân trọng gọi là ‘cô’, ‘thưa cô’ chứ đâu dám gọi tên Gái. Điều đáng nói là khi cô nằm ngữa ra như lúc này, dù ở phần trên là kiểu trẻ thơ hồn nhiên mút tay nhưng ở phần dưới vẫn cứ là kiểu banh háng, uốn éo, vẫn cứ là kiểu đàn bà trâng tráo gợi dục. Những nếp quần lót cứ lồ lộ, tô hô, khiến gã hàng xóm xốn xang tưởng tượng…, mà đã ba, bốn ngày rồi, vợ hắn lại kẹt. Nghĩa là giờ này hắn không tích đức, diệt dục gì ráo mà chỉ tích máu, cương cứng…

2.

Sau ngày 30-4, không được dạy học nữa, gã hàng xóm đành lui về quê vợ kiếm sống. Đó là một vùng quê gần chợ nhưng vô cùng nghèo khó. Tối tăm từ khung cảnh – mỗi tuần chỉ hai đêm có điện – cho đến lòng người: ở đây không được vào công nhân viên nhà nước ‘có tiêu chuẩn’ thì chỉ còn những nghề lao động nặng nhọc, lam lủ, ít tiền. Ngày ngày hắn phụ đẩy xe ba bánh chở đồ hàng bông, hàng rẫy ngoài chợ, chiều tối về thì bập vô mấy xị rượu, mấy con khô bên ngọn đèn dầu để quên đi những sọt khoai lang, khoai mì, bí rợ quá nặng cho một tên thầy giáo “mất dạy”…Thường khi say rồi hắn làm biếng ăn cơm nhưng cứ sau khi ra giếng tắm truồng trong bóng tối, hắn lại hay siêng năng mò vô vợ hắn. Ở trong buồng, bóng tối phủ đầy – tiết kiệm dầu hôi – nhưng hắn vẫn nhận ra được cặp mắt, cặp vú vợ mình hình như lấp lánh sáng. Sáng yếu ớt như chút xíu hạnh phúc héo hon, độc nhất còn sót lại trên đời này.

Cùng khổ, tuyệt vọng dễ khiến người ta tìm tới những chỗ dựa ít kén chọn hay những niềm an ủi ít tốn kém cho cả tâm linh lẫn cảm xúc. Như chuyện con gái của hắn tự nhiên hay bị thức giấc giữa đêm. Con nhỏ mới sáu tuổi nên không thể kể lại rõ ràng nó thấy gì trong khi ngủ đến nỗi phải choàng thức và khóc lóc. Vậy là mấy bà hàng xóm giành quyền giải nghĩa với vợ hắn, rằng cháu nó đã bị người-khuất-mày-khuất-mặt tìm đến hù dọa, phá phách. Quan sát sinh hoạt ban ngày của con nhỏ, đồng thời tìm hiểu kỹ về sức khỏe của nó…, hắn không tìm ra được nguyên nhân ác mộng thì cứ bị vợ hắn thúc gịuc việc cúng kiếng, cầu thầy. Hắn nổi điên!

Một tối, hắn nhậu rỉ rả rất khuya với thằng đạp xe ba bánh ở miếng thềm trước nhà, nó chán hắn đến nỗi lén bỏ về hồi nào không hay. Còn lại một mình trong bóng tối, đèn đã cạn dầu mà vợ hắn đang giận nên chẳng thèm ra dọn dẹp, bỏ mặc hắn nằm dài ra đất như cái mền rách.

Hắn bắt đầu chữi – một hành vi mà từ trước tới giờ mọi người không hề thấy ở hắn, dù đã nhiều lần hắn cũng say dữ dội.

Đ.mẹ, vậy là có thằng nào con nào đó tên là người khuất mày khuất mặt tới phá con tao? Một đứa hay mấy đứa? Hay toàn thể tụi bây? Đâu cần đông đủ long trọng dzữ dzậy? Con tao chỉ là một đứa nít thôi mà? Không đứa nào trả lời à? Tốt! Dù sao thì cũng cho tao được phép kính cẩn nghiêng mình gởi lời.. đ. mẹ tới toàn thể quí vị. Nghe rõ chớ hả? Để tao nghỉ chút xíu, mệt quá… Tiếp đây. Phải, tao lập lại là con tao chỉ là một đứa nít sáu tuổi, yếu ớt, ốm nhách và nó chỉ là con của một thằng cũng ốm nhách, nghèo mạt là tao đây. Tụi bây là những đấng khuất mày khuất măt? Có chức danh nào khác nữa không? Hả? Gì? Người cõi trên? Người cõi âm? Trân trọng kính chào nhưng tụi bây đúng ra chỉ là lũ chó cắn áo rách. Chớ còn gì nữa? Người cõi trên bề trên gì đó thì phải lo phù hộ, độ trì cho đám dân đen dưới trần gian này sống đỡ đỡ một chút chớ! Đằng này tụi bây lại… Tụi bây có lao động không hả, có đổ mồ hôi sôi nước mắt kiếm cơm không hả? Hay rảnh quá rổi chỉ biết đi ăn hiếp con nít. Vinh quang quá hả? Ma cha con tao có chọc ghẹo gì bây đâu? Thôi, tao mệt quá, tao lạy xin tụi bây đừng tới phá con tao nữa, để cho nó được ngủ yên mai dậy còn đi học. Còn nếu không thì… tụi bây có ngon thì tới phá tao đi. Phải, quên con tao đi rồi tới chơi với tao, tao thế mạng con tao, được chưa? Tao đây nè, có ngon thì tới đây. Tao hả? Hồi xưa tao là ai là gì bây khỏi cần biết, giờ thì tao đếch là gì cả, chỉ là một thằng khố rách áo ôm, nhà cửa sự nghiệp không có, cày cả ngày muốn tắt thở mà cũng không đủ kiếm được nổi một miếng thịt nhỏ xíu cho vợ con tao ăn kẹp với rau củ cho đỡ khổ nữa. Nhưng được cái tao là thằng lương thiện, nghèo thì nghèo chớ tao chưa hề gạt gẫm, chơi xấu ai. Mà là người lương thiện thì tao đếch sợ tụi bây, nghe chưa? Tụi bây có biết ông Khổng tử bên Tàu không, ổng có nói câu “Đức trọng quĩ thần kinh”, có nghĩa khi ta là con người lương thiện, trong sạch thì quĩ thần còn phải kinh sợ ta, việc gì ta phải sợ quĩ thần…Thôi, tao mệt quá, lời cuối tao nói cho tụi bây biết, một là tụi bây cứ ngồi yên trên bàn thờ để người ta thắp nhang, cha con tao và tụi bây không ai chọc ai, còn nếu không thì hai là tụi bây có ngon cứ tới chơi tao. Hay là ngay giờ đi, thằng nào con nào ngon thì hiển linh hiện ra đi, tao đây nè. Tao thách đó! Sao, không dám hả? Dzậy mà kêu là người cõi trên. Đ.mẹ tụi bây, đ. mẹ toàn thể tụi bây…

Mơ hồ hắn cảm thấy trong lúc mình lãi nhãi, hình như tới phần giới thiệu sơ nét diện mạo và hoàn cảnh cùng mạt của cha con hắn, hắn đã khóc. Mơ hồ trong những khoảng lặng, hắn cảm thấy hình như mình chân thành thèm chết mới xin “thế mạng” vì… lạy Trời, con hắn là tương lai, còn hắn thì không.

Những ngày sau đó, mọi người tránh mặt gã hàng xóm, cứ như ai cũng kiêng cữ không đến gần kẻ xấu. Hắn thì chỉ nhớ mang máng một số ý tưởng chất chứa trong bài độc thoại đêm đó chứ không biết gì về mức độ âm thanh cùng số lượng khán thính giả có mặt hoặc khuất mặt. Vậy mà, cứ như quan hệ nhân quả, có chuyện lạ xảy diễn, không biết hung cát thế nào.

Đó là tự nhiên có một cặp vợ chồng lạ mặt đến ở trọ sát bên cạnh nhà hắn. Họ đều còn trẻ, anh chồng làm nghề bốc vác ở chợ, không có gì đặc biệt. Chị vợ thì đáng để ý hơn, nhưng không phải bởi nhan sắc, vóc dáng. Hàng xóm đến làm quen thì được cho biết cái cô tên Gái này đã từng là cô giáo, thợ may và cả ni cô nữa, nhưng hiện giờ không thấy cô ta làm gì cả. Cô trầm lặng, ít nói, ít khi ra khỏi nhà cũng như ít khi nấu cơm cho chồng ăn. Có điều là cô bị chứng bịnh gần như động kinh, thỉnh thoảng đột nhiên ngã ra, ngất đi một lát rồi tỉnh, bình thường trở lại như không có gì xảy ra, bà con hàng xóm khỏi cần cạo gió, giựt tóc mai gì cho rộn chuyện.

Nhưng trước sau gì cuộc trình diễn cũng phải bắt đầu. Sân khấu: không cần phông màn âm thanh ánh sáng, chỉ là một manh chiếu rách. Vốn ở miếng sân trước nhà cô Gái đến trọ, lâu nay cứ vào chiều tối – mùa này chiều nào cũng rất mau tối, rất nhiều bóng tối –manh chiếu này hay được thả ra, làm chỗ họp cho mấy bà ngồi lê đôi mách. MC : bà Sáu chủ nhà phụ trách. Cũng không ai có ý kiến, thắc mắc gì về chuyện nhà bà Sáu có đạo, có bàn thờ Chúa mà bà lại tin chuyện đồng bóng.

Cậu đã hiển linh trong một lần Gái động kinh vô cùng khác thường. Cô gái đã không nằm im, nhắm mắt như mọi lần khác, đằng này lại co lên hai chân, tay kéo một bàn chân lên sát miệng để mút ngón chân cái, cặp mắt mở láo liên và thỏ thẻ giọng trẻ thơ. Bà Sáu thấy lạ liền xáp vô, ghé sát mặt Gái. Ban đầu bà hỏi: ” Hả, hả? Mày nói gì tao nghe không được. Hả? Con nhỏ này bữa nay sao lạ…“, rồi bỗng đổi giọng: “Hả? Trời ơi! Dạ? Cậu!? Dạ…Cậu, con lạy Cậu. Dạ con hiểu rồi!” Bà sụp lạy mấy lạy vô thân mình cô gái rồi quay lại mọi người, giọng khác hẳn, kinh hoàng: ” Mấy bà con ơi, té ra đây là Cậu, Cậu về nhập con Gái, ủa, xin lỗi, nhập cổ để cứu nhân độ thế!”. Không khác gì một nhà tiên tri báo tin đấng Chúa mới, vừa ra đời trên chiếc chiếu rách của người nghèo khó! Kế đó, Chúa cũng chọn luôn chiếc chiếu rách làm giảng đàn.

Mọi sự đảo lộn. Bắt đầu từ cô gái. Với trạng thái nhị – trùng – bản – ngã (hay tam trùng? đa trùng?), Gái là đàn bà, đồng thời là xác, và vì Cậu vốn là hài nhi nên Gái cũng là đứa bé trai luôn luôn nằm ngữa. Bà Sáu là chủ nhà nhưng đang kính cẩn cúi lạy con nhỏ thuê nhà và chắc chắn không lấy tiền nhà nữa, đồng thời bà cũng là MC thông dịch, còn lãnh luôn việc giảng nghĩa và bình luận thêm cho lời lẽ của “phức thể” đàn bà + xác + đứa bé… Đám đàn bà con nít xung quanh biến thành những bà cốc, con nữ, thằng nam… Chi tiết quan trọng: Cậu không hiện diện (ai thấy? mặt mũi, hình tướng, quần áo Cậu ra sao?) nhưng luôn luôn hiện hữu trong tin tưởng của những ai tin là có Cậu. Rồi tin tưởng nhanh chóng biến thành tin đồn. Hơn thế, thỉnh thoảng vị khuất-mày-khuất-mặt này thông qua xác mà coi như đã hiển linh thành người trần. Có điều là khi Cậu sử dụng cái thế thân (avatar) dạng “phức thể” đàn bà +xác+ đứa bé như đã phân tích, tuy cụ thể sờ-mó-được nhưng bá gia cũng cần phải kính cẩn tưởng tượng thêm nhiểu nữa mới mơ hồ cảm nhận được thần thái uy nghi của Cậu. Chi tiết ít quan trọng: không thấy có thêm phần cờ quạt, nhang đèn, múa may, rùng mình, ợ ngáp, cười khóc.v.v… theo kiểu lên đồng, nhập xác cổ điển thường thấy trong nước xưa nay.

Một điều nữa là không rõ các bá gia có hiểu hết câu “Đừng nghe lời ai hết” được nhắc đi nhắc lại trong lời dạy của Cậu (hay của xác? hay của MC?) hay không, mà khởi từ buổi khai pháp đó, một cách kín đáo, lặng lẽ – không có lịch họp định kỳ rõ ràng như kiểu họp câu lạc bộ phụ nữ, phụ lão… dưới phường, cái hội trầm mặc kia cứ sinh hoạt bữa có bữa không trong cái ánh sáng nhờ nhợ, buồn bã vào buổi sẫm chiều, ở cái miếng sân hình như thu hẹp và đóng kín hơn khi bóng tối sung sướng ùa về ngự trị.

Qua xác, cộng thêm MC, Cậu giảng dạy việc đạo, việc đời, việc tu hành, việc diệt dục, đặc biệt là về ý nghĩa và sự chuẩn bị cho cái chết. Cậu cũng nhận lời chữa bịnh cho bá gia , nhưng không có thảo dược hay tàn nhang nước thãi bài bản theo kiểu thầy pháp cổ điển, Cậu chỉ dạy người bệnh uống thuốc tây ta gì cũng được, nhưng cần nhất là phải làm việc thiện và thường xuyên cầu xin Cậu độ trì, và nếu là số mạng phải bệnh tật thì Cậu sẽ xin với Trên cho từ từ mà giải hạn, hết bệnh. Cậu không nói Trên là đấng nào, cứ ngầm hiểu là ở bất cứ cõi nào, dù là con người, thần tiên hay ma quĩ cũng đều luôn luôn có cấp trên là được.

Thỉnh thoảng vì bá gia nài xin quá thể, Cậu cũng cho số đề nhưng vấn đề là không bao giờ có một con số cụ thể nào được Cậu xác quyết rằng thế nào cũng trúng. “Đêm qua ta thấy…”, Cậu chỉ mơ hồ nói đến một lô hình ảnh lẫn lộn vài con vật, đồ vật gì đó, rồi qua diễn dịch vô tư, thoải mái của MC, ai hiểu ra là con gì cứ tự đánh con nấy. Mặt khác, tế nhị hơn, dù Cậu không ra lời dạy hay chính thức đặt thành vấn đề, bà con vẫn lén Cậu, lũ lượt đem các loại phẩm vật đến tặng cho Gái theo ý thích của cô. Cô ăn chay, chắc là thích trái cây, nhưng qua lời của MC tiết lộ, cô có thích quần áo hàng mút-xơ-lin màu tối.

Phải kể thêm là qua tâm sự của chồng Gái thố lộ trong một bữa say xỉn bên nhà gã hàng xóm, Gái thích quần lót hàng va-li-ze có thêu, ren chút đỉnh, mặc dù trong bóng tối thì không ai thấy ren, thêu gì. Anh ta dặn đừng nói với ai nên gã hàng xóm chỉ nói với vợ và vậy là vợ hắn mở đầu cho kiểu tặng phẩm vật loại đặc biệt này để mấy bà khác bắt chước.

Riêng có một phần tâm sự rất lâm ly của chồng Gái mà gã hàng xóm còn dấu vợ. Đó là, quá đả bởi một sự hào phóng rẻ tiền cùng tin cậy hoàn toàn nơi bạn nhậu ‘tình thương mến thương’, anh chồng nói nhỏ là từ ngày được Cậu nhập, trên giường Gái chỉ nằm im lặng, xuôi xị, không còn tỏ vẻ có cảm giác hưởng ứng dù có được kích thích hết cỡ, riết rồi chồng cô đành ngủ chay. Cũng vẫn xác thịt đó nhưng nay lại là xác của Cậu rồi, thiêng liêng biết mấy? Gã hàng xóm không nhớ nổi anh chồng đã kể lại chuyện kín này bằng giọng tự hào hay uẩn ức nữa.

Quan hệ trao đổi giữa đôi bên là xác Cậu và bá gia cứ diễn ra thật kín kẽ, đầm thắm. Đầm thắm đến mức không ai nói gì về kết quả của những việc cứu nhân độ thế của Cậu. Không nghe ai nói bệnh của họ có hết hay không, nhưng tốt hơn là không nên khai bệnh hoài – nhất là con nít bệnh này nọ – nếu không muốn nghe Cậu tiết lộ thiên cơ rằng Cõi Trên đang có đợt tuyển người hầu hạ chư thần. Và chỉ có người run rủi bỗng trúng số đề mới mừng rỡ báo tin tài lộc của mình, tất nhiên chỉ khoanh lại trong trong kỳ xổ số họa hiếm ngày hôm đó thôi, vì dù người vừa trúng đề tiếp tục đến dự các buổi Cậu nhập xác, tiếp tục ghi nhận những con số Cậu cho, nhưng chẳng nghe họ trúng tiếp bữa nào nữa.

Vài gia đình xào xáo được Cậu khuyên răn, hòa giải đã hòa thuận trở lại, không cần phải nhờ đến người lớn tuổi hay chính quyền phân xử nữa. Riêng gia đình gã hàng xóm thì vui vẻ hơn vì không rõ có phải do trận chữi liều mạng của hắn đêm đó hay không, tự nhiên con hắn không còn bị ác mộng nữa. Gã hàng xóm đã đoán là vợ mình, nếu không ớn cái tật lý sự, phân tích đủ mọi mặt, mọi khía của hắn thì nhất định cô nàng đã ra tay cải tạo hắn. Hoặc cô sẽ nói : “Anh thấy chưa, vì cái tội vô đạo, không biết tin tưởng quỹ thần, say xỉn rồi mới dám chữi bới, thách thức thần linh, nên Cõi Trên mới ra ơn, thay vì trừng phạt anh lại cho Xác Cậu đến ở cạnh nhà mình và, dù anh vẫn không chịu tin tưởng, một số chuyện tốt đẹp – dù nhỏ nhoi, không có tầm cỡ quốc gia đại sự như anh đòi hỏi – cũng đã đến với gia đình mình và bà con hàng xóm…” . Chỉ có điều đáng tiếc là Thượng đế mà những người loại như cái gã gốc nhà giáo này tin tưởng chắc phải ở một cõi nào khác hay không ở cõi nào cả, chứ không phải là như đang có ở đây là kiểu thần linh loại 2, chuyên trình diễn ở đâu cũng những bài bản múa máy, ợ ngáp giống nhau đến nhàm chán.

Thôi, đó là chuyện của cõi trên, cõi âm gì đó. Trong khi ở cõi này, lúc này, trong cái xóm tối tăm, khuất lánh này, chuyện xác Cậu đến với đám người nghèo khổ và vô vọng là chuyện cũng không đến nỗi tồi. Xác nguyên là cô giáo/thợ may/ni cô gì đó thì cũng là thứ người lạc loài, khốn khó, trôi dạt trong/bởi thời thế như gã hàng xóm, phu xe ba bánh, nguyên là nhà giáo mà thôi.

PHẠM NGA

(Trích tuyển tập ký/truyện THỨ NHỤC DỤC TỦI NHỤC, bìa và phụ bản Roger Mapes & T.K, Australia 2007)

           

Ăn Tết Muộn

MANG VIÊN LONG

 

y nghia tet3

 

Trung và Ái My vẫn chọn thị xã vùng biển Ninh Hòa làm nơi ăn Tết như hai năm trước, tuy biết rằng, qua cơn bão số 12 và nhiều cơn lũ tiếp theo, đã làm nhiều xã vùng ven đã nghèo, càng thêm xơ xác, tiêu điều; thị xã cũng bị nhiều ảnh hưởng nặng nề. Cơn bão số 12 đổ bộ vào thị xã Ninh Hòa với sức gió trên 100 km/h, đã khiến hàng nghìn nhà bị tốc mái, hư hỏng nặng. Các phường Phước Hải, Ninh Diêm, Ninh Thủy nằm ven biển, là nơi hứng chịu thiệt hại nặng nhất của thị xã Ninh Hòa. Nhiều nhà bị sập hoàn toàn không có nơi tạm trú, Nhiều gia đình kiếm sống bằng nghề nhặt ve chai, làm thuê, các nghề phục vụ không ổn định, qua bão tài sản không còn gì, đang đứng trước cảnh nghèo đói mà không thể xoay sở được! Theo thống kê của tỉnh Khánh Hòa,với sức gió cao nhất đạt cấp 12, giật cấp 15 kèm theo mưa lớn khiến 27 người chết, 5 người mất tích, 89 người bị thương; trên 10.000 căn nhà bị sập và hư hỏng; 3.826 ha diện tích lúa bị ngập và 6.258 ha diện tích hoa màu các loại bị ngập, hư hại; 44.320 lồng và 3.270 bè nuôi tôm cá bị trôi hoàn toàn.
Ái My nói:
– Mấy ngày ăn Tết ở đây, em muốn anh đưa em đến thăm…
– Những nơi nào?
– Ngôi trường mà em đã dạy…
– Còn nơi nào nữa không?
– Thăm gia đình anh Thành…
– Có muốn thăm gia đình “nhà chồng cũ” không?
Nhận ra trên gương mặt tươi sáng hồn nhiên của Ái My bỗng như có những đám mây đen lướt qua, Trung biết mình đã lỡ lời. Anh nắm tay nàng: “Bảy ngày ăn Tết ở đây, chúng ta chỉ cần sự yên tĩnh, còn chuyện đi thăm nơi này, nơi nọ, tùy duyên thôi em ạ!” – “Dạ” – Ái My khẽ cười.
***
Năm 81, Trung gặp Ái My lần đầu ở nhà Thành – cách nay đã hơn ba mươi năm. Ngày ấy, Ái My vừa mới ra trường, đến nhận việc nơi ngôi trường Thành đang làm hiệu trưởng. Trung ghé thăm Thành vì đang có dịp công tác ở Nha Trang. Thành hiền, học chăm, không có gì đặc biệt; nhưng Trung lại rất quý sự chơn chất có chút quê mùa ở Thành từ thời trung học. Sau bao năm, ngoài “nghề” dạy học, Thành còn có thêm “nghề” xem quẻ kinh Dịch, rất kinh nghiệm, và uy tín. Hỏi thăm nhà thầy giáo Thành ở Ninh Đông, bà con đều hỏi “Có phải ông thầy coi quẻ kinh Dịch không?”. Xem ra, nghề “xem quẻ” lại nổi tiếng hơn, có ăn hơn nghề thầy giáo. Trung đã có dịp “thử tài” Thành khi nhờ Thành xem giúp đường “tình duyên” của mình, còn danh vọng, tài lộc thì xin miễn, bởi Trung có “ăn gì” đâu, ngoài những tờ giấy? Sau một lúc hý hoáy vẽ sơ đồ, Thành ngước nhìn thẳng lên mặt Trung: “Tuổi thân rất khổ về đường tình duyên, cậu ạ. Phải hai, hay ba lần dang dở, mới yên được!”. Nghe Thành nói, Trung nhận ra Thành đã nói đúng! Cái khổ thân xác chẳng có gì phải bận tâm, nhưng nỗi ưu tư phiền não, đã khiến anh mang phải chứng bệnh mất ngủ mãn tính, không có thuốc nào chữa dứt!
Ái My gọi Thành là “thầy” và cũng gọi Trung là “thầy” luôn. Nàng hồn nhiên, vui tươi, như không nhớ mình đang là một cô giáo cấp ba. Gặp Ái My lần ấy, Trung không có cảm giác gì đặc biệt, ngoài nhận ra ở nàng sự trong sáng, chân tình. Nhưng sau đó không lâu, lúc nhận được Thiệp hồng báo tin ngày Vu quy của nàng, rồi cũng tiếp theo khoảng ba năm, nhận được từ Thành tin nàng đã ly hôn – Trung mới cảm thấy rất thương quý nàng. Một con người hiền thục, hồn nhiên, có tâm từ như Ái My sao lại phải gặp cảnh bất hạnh vậy? Theo lời kể của Thành, nàng được chàng trai của một gia đình giàu có người gốc Hoa ở đây săn đón, theo đuổi. Thành cười, nhắc lại câu ca dao: “Gái khôn, trai dỗ, lâu buồn cũng xiêu!”, nên Ái My đã chấp thuận, bởi nếu sống quanh quẩn trong cái thị trấn bé nhỏ nầy, thì khó tìm ai hơn vậy!
Thời gian sau, gia đình chàng trai được đi ra nước ngoài theo diện người Việt gốc Hoa, nhưng Ái My chưa có tên trong hộ khẩu, nên không thể theo chồng được. Nàng vui lòng chờ đợi ngày bảo lãnh như bao người khác, nhưng không hiểu sao, bà mẹ chồng lại yêu cầu nàng ưng thuận ký vào giấy xin ly hôn với con trai bà, trước ngày rời nước. Ái My cầm tờ đơn hỏi ý chồng, được trả lời ngắn ngủi: “Em làm theo lời mẹ đi!”. Chuyện đến và đi đơn giản vậy, nhưng với Ái My là một lần vấp ngã khủng khiếp. Nàng hụt hẫng, suy nhược, và ưu phiền suốt năm, rồi ngã bệnh. Trong một lần gọi thăm Trung bất ngờ, Thành đã hé lộ cho Trung biết tin từ những thân còn lại của gia đình chồng nàng, rằng Ái My được chẩn đoán trước đó là nàng không thể sanh con được. Tin nầy, có lẽ, Ái My cũng vẫn chưa biết được chăng?
Trung đã gởi cho nàng một thư điện tử, khá dài, chia sẻ nỗi đau, cảm thông và khích lệ nàng hãy vui sống. “Ông trời còn cho em một cơ hội tốt đẹp hơn, là ngày mai, em ạ!” Ái My không trả lời bằng email, mà gọi qua Viber, trò chuyện với anh tưởng như không dứt ra được. Nàng như người đang trôi dạt trên dòng sông chảy xiết, bám được bè gỗ. Trung biểt nàng đang bị suy tim, nghẽn động mạch chủ, đang nằm điều trị ở bệnh viện đa khoa Phan Thiết, chờ chuyển vào Chợ Rẫy; cuộc sống đang rất mong manh. càng khiến anh thương quý nàng, không thể rời xa, như một định số.
Một hôm, nghe nàng nói trong hơi thở nặng nhọc: “Em muốn được nói chuyện với anh, cho dầu sau khi nói, em có thể chết bất cứ lúc nào anh ạ! Xin anh hãy nghe em…” – Trung đã quyết định đến thăm nàng ngay sau đó.
Hai năm qua, họ đã trải lòng yêu thương qua email, những cuộc gọi, tin nhắn, và một năm một lần được “ăn Tết” ở nơi tùy thích; từ ngày Ái My được xuất viện, và bệnh tim của nàng dần dần ổn định, khỏe mạnh, dầu không hề can thiệp bằng phẩu thuật như đề nghị của bệnh viện. Nàng đã luôn nhắc với Trung, trong những lần trò chuyện, tâm sự: “Nhờ tình yêu thương mầu nhiệm của anh, mà em đã khỏe hẳn lên, yêu cuộc sống nầy gấp bội anh ạ!”. Còn Trung, luôn nói: ”Anh cũng rất cảm ơn em – viên thuốc an thần kỳ diệu, vô giá của anh!”.

***

Căn phòng B-07 của khách sạn Viễn Đông dường như luôn dành sẵn cho họ, mỗi lần ghé lại. Có lần, vào phòng Lễ Tân hỏi lấy phòng, nhìn thấy khách đang ở đông, Trung nghĩ đã hết, nhưng cô tiếp tân mỉm cười, chìa ra trước mặt anh xâu chìa khóa của phòng B-07. Ái My cũng ngạc nhiên, tròn xoe mắt nhìn Trung: “Đúng là duyên số đã định rồi, anh!”.
Vào phòng B-07 – cả hai đều có cảm giác an vui như được trở về “nhà xưa” của mình. Họ ôm chầm lấy nhau, như hai mảnh nam châm.
Tình yêu và tương lai của họ là đời sống hiện tại, trong căn phòng B-07 nầy để vui xuân, đón Tết – thời khắc ngắn hay dài, với họ, không còn ý nghĩa nữa! Trung nằm bên nàng, cầm bàn tay nàng đặt lên ngực mình: “Chúng ta lạc lõng như những mùa xuân muộn em ạ!”. Anh đọc:
“Vụng sắm cành đào không kịp Tết,
Ra giêng chợt hé một vài bông…
Xuân nhà người khác bay đi hết,
Ngoảnh lại xuân ta mới chớm hồng!” (*)

MANG VIÊN LONG
(*) Thơ Yến Lan

Đà Lạt, Mùa Giáng Sinh Ngày Xưa…

PHẠM NGA

  dalat mua

1.

Hòa biết bản “Bài thánh ca buồn” của nhạc sĩ Nguyễn Vũ khi Hòa mới 15 tuổi, đang học lớp đệ tam C trường Pétrus Ký. Ông nhạc sĩ tài hoa đã kể thuở còn một cậu bé 14 tuổi sống trên Đà Lạt, ngày ngày đi lễ ở nhà thờ Con Gà thì tình cờ gặp một cô gái rất xinh. Mở lời làm quen thì biết cô ấy lớn hơn mình 2 tuổi nhưng trái tim vụng dại của cậu con trai mới lớn vẫn đập loạn nhịp trước bóng dáng thiếu nữ có mái tóc dài buông thả, đẹp như mộng ảo giữa cảnh sắc đồi thông Đà Lạt sương mù.

Hòa mê mẩn trước lời kể của nhạc sĩ Nguyễn Vũ, rằng có một lần tan lễ Giáng sinh thì trời đổ mưa, cô gái nép vội vào mái hiên ngôi nhà nọ gần nhà thờ, ông cũng đứng trú bên cạnh. Những kỷ niệm và xúc cảm thiết tha lần ấy chính là nguồn cảm hứng để ông viết nên bản “Bài thánh ca buồn” sau này.

Năm Hòa ngồi lớp đệ nhị C là 1965, Hòa lại càng thích bản “Bài thánh ca buồn” bởi bắt đầu quen Vi ở Sài Gòn, bởi ngẫu nhiên Vi cũng là người gốc Đà Lạt, cũng lớn hơn Hòa 2 tuổi, cũng duyên dáng, cũng tóc dài, nghĩa là có khá nhiều điểm giống cô gái trong chuyện tình dịu ngọt thời thơ dại của nhạc sĩ Nguyễn Vũ …

Cuối tháng 12 năm ấy chợt có kỳ trại đặc biệt được Bộ Giáo dục thời đó tổ chức vào dịp Giáng sinh, ưu ái dành cho ban đại diện học sinh và các lớp trưởng khối đệ nhị cấp của riêng bốn trường lớn nhất Sài Gòn là Pétrus Ký, Chu Văn An, Gia Long và Trưng Vương được đi chơi Đà Lạt 5 ngày. Hòa là lớp trưởng nên được dự kỳ trại có cái tên “Anh Đào” thật đẹp này.

Có cơ hội lần đầu tiên lên Đà Lạt, lại trúng ngay mùa Noel, Hòa nghĩ ngay đến Vi, bởi khi đó Hòa chỉ có Vi là người quen/bạn duy nhất có nhà ở thành phố này.

2.

Đỗ tú tài nhất xong, Vi từ biệt bố mẹ xuống Sài Gòn học sư phạm mẫu giáo. Do người bà con giới thiệu, cô gái đến ở trọ trong trường Mạnh Mẫu, nơi em gái út của Hòa đang theo học, vốn là một trường mẫu giáo nổi tiếng ở khu Tân Định. Một lần nọ, vào giờ tan học buổi chiều, anh tài xế ở nhà lái xe đi rước con bé, Hòa rảnh nên cũng theo chơi. Đang thơ thẩn ngồi chờ trước sân chơi xích đu, cầu tuột, Hòa thấy một cô gái thật trẻ ra phụ các cô giáo trông chừng bọn học con trai lí lắc hay leo trèo, nhảy nhót quá đáng. Gương mặt cô gái không trang điểm nhưng vẫn thùy mị dịu dàng. Mái tóc Vi đen tuyền, xỏa ngang vai, còn giọng khuyên bảo bọn trẻ nghe cứ ngọt như mật ong…, Vi thu hút Hòa ngay từ cái nhìn đầu tiên. Rồi thư viết cho nhau đã nhiều nhưng ngồi bên nhau trong khuôn viên nhà trường thì còn ít bởi để giữ gìn cho các thiếu nữ ở trọ, qui định về khách thăm viếng ở trường Mạnh Mẫu rất nghiêm nhặt.

Vi nhận lời hẹn gặp và cho Hòa địa chỉ ở Đà Lạt. Hòa sung sướng đến muốn bay bổng lên trời xanh. Thế là đến tuổi 16 cậu mình mới được thỏa mơ ước cháy bỏng từ thời thiếu niên là được lên Đà Lạt, đặt chân đến thành phố của Ngàn Hoa, thành phố Sương Mù… như văn chương, âm nhạc thường ngợi ca. Càng hạnh phúc, hát ca hơn là trong chuyến du lịch miễn phí diệu kỳ này, Hòa sẽ có dịp gần gũi hơn với cô bạn xinh đẹp vào đúng dịp Giáng sinh, nghĩa là gần như Hòa sẽ được thể nhập trọn vẹn – chứ không phải ngồi tưởng tượng nữa – vào khung trời lãng mạn tuyệt vời của bản “Bài thánh ca buồn”.

3.

Trời mới rạng đông, trại viên trại Anh Đào được đưa ra phi trường Tân Sơn Nhứt, ngồi máy bay quân sự C123 lên Đà Lạt. Mờ sáng đã đến phi trường Liên Khàng, thời tiết thật tuyệt diệu, không quá lạnh như Hòa tưởng tượng. Có chuyện hơi buồn cười là suốt 5 ngày trại, toàn thể bọn trại viên con trai lại được cho về ở chỗ của… con gái:  trường nữ trung học Bùi Thị Xuân. Ổn định chỗ ở xong, trại viên được tự do ra phố vài tiếng, chỉ cần 11 giờ 30 phải về lại trường để đi ăn cơm trưa.

Theo một nhóm bạn xuống đến bờ hồ Xuân Hương thì Hòa tách ra, nói với tụi nó là cần đi tìm, thăm nhà bà con. Hòa đứng bên lề đường, dáo dác kiếm taxi. Ở Sài Gòn thời ấy có một kiểu sử dụng xe taxi khá tiện lợi, đó là bạn có thể gọi bất cứ chiếc taxi chạy ngang đang chở khách nhưng vẫn còn ghế trống, thường là xe sẽ dừng lại để tài xế hỏi bạn đi đâu, nếu lộ trình bạn cần đi thuận chiều với lộ trình của khách đã ngồi trước trên xe thì tài xế sẽ đồng ý chở bạn đi chung, ai xuống trước cứ trả phần tiền xe của mình… Hòa vừa quắt trúng chiếc taxi đã có hai sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Đà Lạt ngồi ghế sau. Cửa xe vừa đóng là Hòa vội vàng nói ngay, cố ý cho cả ba người trên xe cùng nghe:

-Chào các anh, làm ơn chỉ dùm và cho tôi đến địa chỉ này, số 23 đường Biệt Thự, bờ hồ Xuân Hương. Tôi ở Sài Gòn, đây là lần đầu tiên lên Đà Lạt, muốn ghé thăm người bà con…

Một anh SVSQ ngồi phía sau vui vẻ trả lời ngay:

-Hên cho anh rồi, đường Biệt Thự ở ngay phía bờ mờ mờ bên kia, đây vòng qua đó chừng 10 – 12 phút thôi, phải không bác tài?

Mọi việc đều diễn ra suôn sẻ, Hòa vừa hí hửng vừa nôn nao đầy lòng. Chiếc taxi dừng lại cạnh một bãi cỏ thật xanh bên đường, Hòa hỏi bác tài tiền xe bao nhiêu thì bác ta lại quay nhìn hai người khách phía ghế sau. Cũng cái anh SVSQ vui tính lại nhanh miệng nói:

-Có bao nhiêu đâu anh bạn. Đúng ra ở Đà Lạt rất ít người đi chung xe taxi như ở Sài Gòn nên hiếm có ai quắt xe đã có khách như anh vừa rồi. Thôi, rất vui nghe anh học ở Sài Gòn, lên dự trại thăm Đà Lạt. Để tụi tôi tính cho, coi như cho anh quá giang. Lo đi tìm nhà người bà con đi nhé!

Hòa không ngờ ngày đầu tiên ở Đà Lạt mình đã may mắn gặp được người tử tế như vậy nên xăng xái bắt tay cám ơn hai anh SVSQ, cám ơn cả bác tài. Họ cười, chúc Hòa vui vẻ trọn những ngày ở Đà Lạt.

Từ lề đường nhìn lên chỉ thấy dốc đồi thoai thoải, lối đi ngoằn nghèo chạy giữa những bãi cỏ xanh rờn cùng những mái nhà thưa thớt, ẩn mình giữa những cây thông cao vút nên ở đâu cũng đầy bóng râm. Nhà số 23 nằm khuất ở một sườn đồi cách đường lộ bên dưới khá xa nên có vẻ đìu hiu, vắng lặng. Gõ cửa rất lâu Vi mới ra mở cửa với nụ cười thật phấn khích, vẻ bất ngờ vươn đầy ánh mắt…

Vi mời Hòa vào nhà, rót tách trà actixô bảo Hòa uống liền cho ấm. Nhà đang chỉ có mỗi mình Vi. Ngồi chốc lát là Hòa đã khẽ đề nghị cô bạn ra ngoài ngõ, ngồi chơi ở bãi cỏ trên sườn đồi thoai thoải phía trước cổng nhà.

Đã là hiện thực cái trường đoạn phim trữ tình, thơ mộng nhất mà cậu con trai tuổi 16 đã khổ công vẽ vời sẵn từ những đêm cậu mình bỏ ngủ, nằm tưởng tưởng đủ điều trước ngày đi Đà Lạt.

Ở lần gặp trước gần đây nhất, Hòa đã vừa hỏi Vi xin địa chỉ ở Đà Lạt vừa hỏi nàng có về nhà nghỉ mùa Giáng sinh không. May mắn là Vi sẽ về nhà trước cả ngày trại Anh Đào khai mạc và tận sau Tết dương lịch mới trở xuống Sài Gòn. Tuy nhiên, khi ấy Hòa chỉ nói là trong mấy ngày trại sẽ cố gắng, sắp xếp thời gian để tìm đến nhà Vi, gọi là gặp nhau ở nhà bạn, quê hương bạn cho thân thương hơn. Do đó khi thấy Hòa ở cửa, Vi nói ngay bất ngờ quá đi!  Giờ ngồi trên bãi cỏ, Vi giải thích thêm rằng dù có đồng ý cái hẹn “để trống ngày giờ” nhưng trong thâm tâm nàng lại cảm thấy biết đâu sẽ có trở ngại này khác khiến Hòa không thể sắp xếp, thực hiện được chuyện hai đứa gặp nhau được trên Đà Lạt, nhất là vào dịp đặc biệt là Giáng sinh.

Giờ đây Hòa đang ngồi với cô bạn gái trên bãi cỏ ngập lá vàng khô. Hoàn toàn chỉ có hai đứa, không có con mắt dòm ngó nào của thiên hạ xung quanh.

Lúc nào gặp Vi, Hòa cũng thấy cô thật thùy mị, dễ yêu. Đặc biệt là khi trở về với khí hậu Đà Lạt, đôi má Vi trở nên hồng hào thật quyến rũ, không còn màu trắng, thoáng xanh nhợt nhạt bình thường như lúc ở Sài Gòn.

Thỉnh thoảng bờ vai hai đứa chạm khẽ vào nhau. Hòa còn thầm mong, thèm nhiều hơn nữa, như được nắm tay, hay được ôm qua vai người con gái. Vi trong thực tế là cô bạn gái lớn hơn Hòa 2 tuổi, học cũng trên lớp, nhưng trong “kịch bản” của Hòa, nàng đã mơ hồ hóa thành người yêu bé bỏng. Hòa thêu dệt, lý tưởng hóa kịch bản này đến nổi, do gặp nhau đột ngột, cô gái có sửa soạn gì đâu mà chỉ mặc bộ đồ bộ bình thường ở nhà, gương mặt cũng không trang điểm chút nào nhưng Hòa vẫn thấy Vi thật xinh đẹp và quyến rũ.

Được ngồi sát bên Vi, Hòa đã hết sức sung sướng bởi hai lẽ, một là được gần gũi Vi với mối cảm xúc ngất ngây hình-như-là-tình-yêu đang lên ngôi dù Hòa chưa hề tỏ tình, hai là được thưởng thức cảnh tượng lãng mạn đang trở thành hiện thực từ những gì Hòa tô vẽ trước đó…

Hòa kể Vi nghe hiện Hòa đang “tạm trú” ở một nơi khá đặc biệt, đó là trường con gái. Mỗi tổ nam sinh được đưa vào một lớp học để tự động ghép bàn làm chỗ ngủ, ba-lô túi xách cứ để bừa trên ghế, nhà vệ sinh chung thì ở cuối dãy… Cô bạn cười ha ha, trêu Hòa là hãy biết mang ơn ban tổ chức trại, hãy ráng tìm trong các hộc bàn coi có cái kẹp tóc, gói muối ớt cùng miếng ổi xanh nào không, hay lãng mạn hơn thì một sợi tóc dài thiệt dài nào đó rồi ráng mà tưởng tượng đó là của một cô bé dân Đà Lạt thiệt xinh nên hãy viết lá thư làm quen để lại trong hộc bàn, “Nghề của dân ban C mà!”. Hòa trêu lại nàng, hỏi khẽ “Xinh như Vi phải không? Có Vi đây rồi thì mình còn phải đi tìm cô nào khác nữa?”.

Cô bạn gái hốt nhiên hóa thành nửa-bạn-nửa-người-yêu, đôi má đỏ hồng hơn nữa vì thẹn thùng và cúi mặt cười tủm tỉm, cũng để tránh ánh mắt say đắm, khát thèm yêu thương của người con trai. Rồi hai đứa im lặng thật lâu. Có cảm xúc gì đó chợt dâng lên ngọt ngào, êm ái thấm sâu vào tâm tưởng…

Nhờ Hòa có cẩn thận bảo trước với Vi rằng cần tập trung về cái trường con gái ấy trước 11 giờ 30 nên dù hai đứa mê mãi thủ thỉ chuyện trò, cô bạn vẫn kịp nhắc Hòa. Vi đưa Hòa xuống đến lề đường, hai đứa đều có vẻ bâng khuâng, bàng hoàng như vừa tỉnh một cơn mộng ảo giữa ban ngày. Hòa âu yếm bắt tay Vi, nàng để yên cho Hòa xiết nhẹ, giữ thật lâu bàn tay mình. Hòa lưu luyến vớt vát hơi ấm nồng nàn từ người con gái, nhưng khi nói lời từ biệt thì câu mình lại không thể nói hẹn gặp lại lần nữa tại Đà Lạt này, bởi Hòa chạnh nghĩ chỉ còn bốn ngày trại, chương trình thăm viếng các nơi thì đặc kín sáng chiều

4.

Một, hai năm sau, tình bạn của Hòa và Vi vẫn cứ thế, không tiến triển thành tình yêu. Vi vẫn khoan hòa, tế nhị như có ý chờ đợi Hòa, còn Hòa vẫn thấy không ổn, vẫn ngại tỏ tình với người con gái lớn hơn mình hai tuổi và còn vào đời, trưởng thành sớm hơn mình nữa.

Nói chung, Hòa vẫn tiếp tục là một tên con trai tân nhát gái, vẫn mộng tưởng với loại tình yêu “duy tâm” hiền lành. Chỉ được cái là về viết thư tình, cậu mình có thêm một số kinh nghiệm cảm xúc để viết hay hơn – theo nghĩa lâm ly hơn, tạo ấn tượng hơn để con gái chịu bóc xem các lá thư kế tiếp… 

Có lần Hòa đem chuyện lên Đà Lạt gặp Vi kể cho một thằng bạn học lớn hơn Hòa cũng đúng 2 tuổi, từng trải nhiều mối tình và thuộc hạng hơi Casanova Sát Gái một chút. Nghe xong chuyện, hắn không thèm hỏi lại câu nào mà chỉ cười nhếch mép, phân tích chỉ dạy cho Hòa hai khía cạnh hay và dở đối lập nhau của vấn đề. Một là, vào các dịp Noel thì bọn con trai luôn ước mơ có được, có đủ những thứ quí giá, như có xe máy mới, được mời dự dạ vũ cùng tiệc réveillon và quí hơn hết là có đào xinh xắn, là bạn gái hay người yêu đều được, để cùng đi chơi Noel – điều này thì vào dịp Noel năm đó, cái hay của Hòa là dù còn khờ, Hòa vẫn may mắn có đào tuy phải mò lên đến tận xứ sở sương mù. Hai là, cái dở của Hòa là lúc đó đúng là Hòa khờ quá, còn con nít quá, không biết lợi dụng ngay hoàn cảnh chỉ có một mình cô gái ở nhà, chỉ biết rủ nhau ra ngồi bãi cõ, tựa vai nhau nói chuyện chay thì hiền quá!

Tất nhiên, có bị đàn anh về chuyện bồ bịch, yêu đương kia chê là “con nít”, “khờ” gì thì cũng ráng mà chịu nhưng Hòa đã rây lọc, chỉ tiếp thu ý kiến nào nghe đứng đắn, lương thiện từ thằng bạn nổi tiếng là Casanova bạc tình kia.

Dù sao, Hòa đã nhận ra là vào mùa Giáng sinh phiêu lãng trên Đà Lạt năm nào,  mình đã được thỏa ước nguyện. Như được phép lạ từ Chúa Hài Đồng, cậu con trai 16 tuổi ấy, lần đầu tiên trong đời đã được cùng cô bạn gái ngồi khăng khít bên nhau trên đồi thông đầy lá rụng. Đây là cuộc hẹn hò hình-như-là-tình-yêu lãng mạn nhất mà cậu con trai mới lớn đã phóng rọi và thăng hoa từ một tình bạn thắm thiết với một thiếu nữ hiền lành nết na, mà dù sau này không bay bổng thành tình yêu đi nữa thì cũng vẫn luôn là một tình bạn thật đẹp, thật thuần khiết, trong sáng đến muôn đời…

PHẠM NGA

(cận Giáng sinh 2019)

DẠY CON

Ý Nga 
          Bạn tôi kể:
 
          Hồi nhỏ Ba mình dạy Toán cho con gái thường dùng những thí dụ dễ hiểu như vầy:
          -Nếu con bưng một nồi cà ry từ bếp lúc 3 giờ, đến nhà ông Ngoại để biếu là 4 giờ 10 phút. Vậy con đã đi với vận tốc bao nhiêu cây số 1 giờ?
          Má hỏi: -Cái nồi nặng bao nhiêu ký vậy anh?
          Ba rộng lượng với mấy con số bất chợt: -Riêng cái nồi không 4kg, thêm 9 lít nước, 1kg thịt gà, 2kg vừa khoai tây, khoai lang vừa cà rốt, sả, hành, tỏi, tiêu, ớt và 1 trái dừa. Con tính luôn xem là nguyên nồi cà ry nặng bao nhiêu kg đi?
          Má nói: -Con thưa với Ngoại là: món này Ba nấu lỏng bỏng vậy tha hồ cho bà Ngoại chấm bánh mì, khỏi cần nhai, nhưng Ba quên bỏ cà ry và quên mua bánh mì rồi, Ngoại sai con Nụ đi mua giùm Ba.
          Rồi quya sang Ba, Má hỏi: Mà nồi có nắp không anh?
          Ba thương con: -Nắp chi nữa cho nặng con nhỏ?
          Má lo lắng: -Không có nắp thì con trừ hao đi: đến nơi sẽ đổ hết một nửa trọng lượng, không mỏi tay đâu.
          Ba sợ đổ: -Vậy con ra vườn hái một tàu lá chuối to, rửa thật sạch, rồi đậy lên thì đi đường nước không sóng sánh ra đất, vừa nhẹ lại vừa tránh bụi bặm.
          Má chu đáo: -Nếu bụi bay lên lá chuối nhiều quá thì con đi chầm chậm không thôi bụi nó… ăn hết… “cà ry” nha con.
          Rồi cũng Má thắc mắc: -Mà nồi nóng không anh?
          Ba trấn an: -Ấm thôi! Cho khỏi phỏng con gái cưng! Khi nào dùng, bà Ngoại sẽ hâm lại cũng được.
          Má lại lo xa: -Nóng hay lạnh thì con bé cũng không thể bưng nỗi cái nồi nhiều ký thế kia đâu anh.
          Ba có ngay một biện pháp: -Anh Hai sẽ khiêng phụ con!
          Má phản đối: -Đứa cao tồng ngồng sẽ nghiêng hết sức nặng về phía con bé tí teo này. Anh đâu muốn nàng út… tắm “cà ry” phải không nè? Sao anh không đổi cái nồi “cà ry” khổng lồ nặng trịch kia thành một cái giỏ trái cây nhẹ nhàng êm ái hơn cho con gái?
          Ba đuối lý nên cho một bài toán rất “xì trum” (Les Schtroumpfs*): -Ừ thì một cái giỏ gồm vừa hoa quả, vừa trứng gà, bánh, kẹo là… 5,1 kg
          Má vẫn còn lo: -Giỏ nặng không anh?
          -Chỉ 132,65gr thôi, tính luôn cái… nắp gài lại để giữ cho hoa tươi và trái cây bà Nội mới hái không bị rớt dọc đường!
          Má rành rẽ: -Người ta bảo: “Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, ai lại bỏ trứng và hoa tươi chung với trái cây thế kia thì còn gì… đời hoa? Con cầm hoa trên tay nha!
          Con bé ngây thơ vô số tội tính toán thật hà tiện: -Dạ cứ để hoa trong giỏ! Tay của con phải cầm viết thì mới tính bài toán này được.
          Để coi: 5 kg thì chắc là trong giỏ có 1 trái ổi, 1 trái xoài tượng, 2 trái me dốt, 2 trái cốc, 10 trái chùm ruột, gói muối ớt và 1 vòng hoa vạn thọ để con và nhỏ Nụ chơi trò Cô Dâu.
          Ba còn đang ngơ ngác thì Má đã nhắc tuồng: -Con không thêm ô mai, xí muội cho đủ trọng lượng Ba đã yêu cầu sao?
          -Dạ! Hổng ấy thêm 1kg hột dưa và mứt dừa nghen Má? Con Nụ nó hổng thích ô mai!
          -Ừ! Để Má lấy trái dừa trong nồi “cà ry” của Ba ra làm mứt, bề nào thì không cà ry cũng phải có dừa cho Ba con vui.
          Ba đầu hàng: -Thôi hôm nay con qua đó tính với cháu Nụ xem thử vận tốc là mấy km/1 giờ đi?
          Kể từ mai, lớp Toán sẽ chỉ còn mỗi một giáo sư và 2 đứa học trò thôi, nhớ nhắc cháu Nụ qua sớm!
          Má đắc thắng: Hai giáo sư dạy một học trò thì mới giỏi chứ anh! Em cũng dạy toàn những điều hữu lý, có ích cho sự suy nghĩ của con mà!
          -Dứt khoát chỉ hai học trò và một giáo sư! Anh chỉ muốn dạy cho con tập tính toán cho mau, em vừa… rề rà vừa… rầy rà quá… như vậy thì nên ở trong phòng mà làm… thơ đi!
          Ừ mà con có nhớ cách tính bài toán này không nè?
*
          Sau này mình nghe ông anh kể thêm rằng: sự im lặng hơi lâu sau câu hỏi làm ba má khựng lại, quay qua nhìn thì cô học trò bé bỏng đã… ôm mứt dừa biến mất tự lúc nào.
          Ông nội ngừng đọc sách và trả lời thay:
          -Giờ này chắc tụi nhỏ đang gọt xoài tượng chấm muối ớt rồi!
          Hổng biết chúng sẽ làm gì với mấy cái trứng bể trong giỏ chứ Giáo Sư Toán và Giáo Sư Văn thì nên học nhau cách dạy con qua đề toán cho rõ ràng và nhanh nhẹn hơn giùm ba.
          Sau Tết hai con ghi danh liền cho 6 đứa nhỏ trong nhà đi sinh hoạt Hướng Đạo Việt hết đi! Chứ cứ để chúng nó hết khiêng “cà ry” lại làm Cô Dâu Đội Bông Vạn Thọ thì làm sao mà tháo vát và khôn ra nỗi?

CHUYỆN CỦA “ĐÀN ÔNG XỊN”

Đặng Xuân Xuyến

Cu em dại đã chuyếnh choáng, cứ vít đầu lão xuống, ghé vào tai thì thầm:

– Em thề… em là đàn ông anh ạ. Đàn ông xịn 100% đấy… Em không giống thằng Tuấn Anh, chỉ được mẽ đẹp trai, dẻo mỏ… nhưng đếch phải là đàn ông…. Em.. Em hận con vợ em. Mẹ nó chứ. Em đã tha thứ cho nó, chấp nhận về ở với nó cũng chỉ vì con cái… Ấy thế mà nó lại lén uống thuốc ngừa thai… 

Mùi rượu, cộng với cái mùi “cả tháng không thèm đánh răng” từ mồm thằng em bốc ra, xộc thẳng vào mũi làm lão muốn ói… Lão đẩy nó ra, tức giận:

– Thì cô ấy không muốn sinh thêm em bé chứ sao? Đẻ lắm làm gì, chỉ khổ con cái …

Không để lão hết câu, thằng em dại dướn lông mày lên, cay cú:

– Loại đàn ông không tài mà lắm tật như anh thi biết cái gì. Mấy tháng nay, ngủ với nó em có làm đếch gì đâu mà nó phải ngừa thai… Ức lắm anh ạ…. Mẹ nó chứ… Nó thật vô liêm sỉ. Nằm bên em mà nó lại nhắn tin cho thằng nhân tình. Khốn nạn. Nó còn chạy vào nhà vệ sinh thỏ thẻ với thằng nhân tình rằng anh ơi thằng đụt nó vẫn còn thức, chưa ngủ.. Quay ra, thấy em, nó thản nhiên hỏi: – Nghe hết rồi à? Càng tốt. Đây đỡ phải giấu… Là anh thì anh có tức không? Anh sẽ làm gì? Anh nói đi…

Lão ngớ người với câu hỏi đột ngột và khó trả lời của nó. Lão ấp úng, lão bối rối như gà mắc tóc vì lão làm gì có kinh nghiệm bị vợ cắm sừng mà đưa ra câu trả lời thỏa đáng: – Thì … thì .. anh làm sao biết được. Thế lúc đấy chú xử lý thế nào?

Nó lắc đầu: – Đau, đau lắm anh ạ.

Lão thấy tội cho nó nên vỗ về, an ủi:

– Ừ, đau thật…Bị vợ cắm sừng công khai như thế thì đau thật. Rồi sao nữa? Chú xử lý thế nào?

– Em hỏi nó đã dội nước nhà vệ sinh chưa để em giúp.

Lão trợn mắt nhìn nó. Lão cứ ngỡ nó sẽ kể rằng em giang tay tát bốp cái rõ đau vào mặt con vợ, hoặc chí ít cũng phải là vài câu chửi cho hả giận, ai ngờ…

Có lẽ hiểu sự ngạc nhiên đến tức giận của lão nên nó thở dài: – Chấp làm gì với thằng chỉ dám tán vợ em qua điện thoại hả anh. Như thế nó là thằng không đàng hoàng, không phải là đàn ông xịn. Mình là đàn ông xịn 100%, chấp với nó thì khác gì cho nó cơ hội bằng mình… Em chẳng dại… 

Chưa nói hết câu, thằng em dại vội quay mặt…

Lão nhìn nó, lặng người.

Hà Nội, ngày 30 tháng 03 năm 2013
Đặng Xuân Xuyến

“VỢ NHẶT” CỦA ANH K…  

*

Anh hơn tuổi, học trước nhiều khóa, lại chơi với nhau khi lão đã ra trường chán chê nên chỉ loáng thoáng nghe chuyện tình duyên của anh lận đận lắm. Mọi người kể, thời sinh viên, anh yêu mê mệt “cô bé” tên Chi, nhưng chẳng hiểu lý do gì mà hai người lại chia tay, anh “khép cửa tình yêu” từ đấy. Bạn bè đồng trang lứa, rồi đàn em sau anh 5 khóa, 10 khóa, 15 khóa… lần lượt rời bỏ cuộc sống độc thân, anh vẫn lầm lũi một bóng đi đi về về căn gác đã mua từ thời trai trẻ.

Thế rồi đùng cái anh yêu. Yêu vội, rồi cưới gấp theo đề nghị của “nhà gái”. Đến dự đám cưới, nhìn cô dâu, lão choáng vì người đâu mà xấu. Cái mặt đã dài lại còn vẹo vọ. Hàm răng đã cái thò cái thụt lại xỉn màu nham nhở. Nói không quá lời, Thị Nở nếu hiện diện có khi nhan sắc nhìn còn dễ chịu hơn, duyên hơn… Quá thất vọng, lão buột miệng, thốt câu: – “Đã nhịn đến từng này tuổi sao lại đi rước hàng tồn kho phế phẩm như thế!”. Bạn bè bấu lão, nhắc: – “Nói khẽ thôi kẻo nhà gái họ nghe thấy, chửi vỡ mặt đấy.”. Rời hôn lễ, lão ghé tai anh nói nhỏ: – “Nhịn bao năm mà lấy vợ xấu thế.”. Anh cười ngất, đấm lưng lão, chửi: – “Thằng khỉ! Chỉ cần anh thấy chị mày trẻ trung, xinh đẹp là oke rồi.”. Mừng cho anh đã có mái ấm gia đình nhưng thật lòng lão vẫn thấy gợn gợn điều gì đó rồi sẽ không ổn với người “vợ nhặt” của anh…

Cưới xong, nghe vợ, anh bán nhà ngoài Hà Nội rồi chuyển công tác vào Sài Gòn cùng vợ, chấp nhận trở lại làm anh công chức quèn để vợ chồng sớm sinh em bé. Từ đấy, lão với anh không gặp lại. Mấy lần liên lạc với anh qua điện thoại nhưng anh không bắt máy, tưởng anh thay số nên lão xóa khỏi danh bạ, vì thế lão mù tịt về anh, vẫn nghĩ, cuộc sống của anh chắc vẫn ổn.

Chiều qua, nghe điện thoại, thằng bạn bảo: – “Con Thủy nó lừa hết tiền bạc của ông ấy rồi. Còn lừa ông ấy đứng tên vay nợ nhiều người mà toàn cam kết là vay cho riêng mình. Giờ ông ấy khổ lắm. Không vợ, không con, sắp tuổi nghỉ hưu rồi mà không có chỗ trú nắng trú mưa, lại cõng một đống nợ trên lưng…”

Buông điện thoại, lão thẫn người, thương anh là người tốt sao số lại khổ đến thế!

Hà Nội, 17 tháng 09 năm 2013

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

NHÀ THƠ GẠ BÁN THƠ

Đặng Xuân Xuyến

hoa-dai-nhieu-loai

Anh điện đến hỏi: 

– Này, sao thơ tôi, ông không chịu bán giúp? Ông thấy đấy. Trên phây, bài nào của tôi cũng vài trăm like. Thơ thế, ông mà bán thì thôi rồi, tôi khẳng định sẽ đắt như tôm tươi…

Anh cứ thao thao làm lão ngại, không biết trả lời anh sao nữa. Thật lòng, cũng rất muốn bán giúp anh nhưng giờ có ai bỏ tiền ra mua thơ để đọc? Nói thẳng sợ anh buồn, không nỡ, đành viện lý do này kia để anh đỡ buồn thì anh lại trách là ích kỷ, là không có tinh thần đồng hương, đồng đội. Lão vâng dạ rối rít để anh bớt giận nhưng hình như anh không chịu hiểu nỗi khổ của lão nên cứ dồn: 

– Ông có biết thơ của thằng Z không? Ông thấy thơ của nó thế nào? 

Lão thật thà: 

– Anh ấy tặng em mấy tập thơ nhưng em mới đọc được dăm bài vì… bận quá.

Anh gặng: 

– Thế đọc, ông có hiểu gì không?

Lão sốt sắng: 

– Có chứ anh…

Anh gạt luôn: 

– Bậy! Bậy hết sức! Thơ đọc mà hiểu liền thì đéo phải là thơ! Thơ là bậc thầy của nghệ thuật sử dụng ngôn từ, chữ nghĩa, đâu phải là cách ăn nói bỗ bã, thiển cận của dân chợ trời mà cánh phàm phu tục tử đọc là hiểu liền… Chết thật! Chết thật! Chả trách văn hóa đọc của nước mình ngày càng xuống cấp trầm trọng đến thế…

Lão ỉu xìu như bánh đa nướng gặp phải trời mưa, chẳng biết nói sao, chỉ ấp úng: 

– Vâng, thưa anh… nhưng thơ là tiếng nói của tâm hồn, là ..

Anh gắt: 

– Là… cái con vẹt! Ông biết đếch gì về thơ ca mà “ní với chả nuận”. Mai tôi cho con bé nhà tôi đèo đến trăm cuốn, ông muốn nhét vào đâu thì nhét…

Lão ngớ người, muốn nói rằng, anh ơi tha cho em, thơ anh em đọc không hiểu thì biết “nhét” vào đâu… Nhưng đầu dây bên kia anh đã kịp dập máy, Lão cứ mãi ú ớ, khiến cu con nhà lão hoảng hốt:

– Bố! Bố bị sao thế? Bố bị trúng gió à…?

– !!!

Hà Nội, 17 tháng 09 năm 2013

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

  CON ĐƯỜNG TÌNH TA ĐI

Võ Công Liêm

myh

    Mượn ca từ của nhạc sĩ Phạm Duy làm chủ đề thì may ra trọn ý, trọn tình cho cụm từ: –In Love With The Way; đặc cách này có thể không đi sát vấn đề, nhưng; đó là thể cách diễn đạt ý và lời, chữ và nghĩa cô đọng trong một nghệ thuật bút pháp (calligraphy), một thứ nghệ thuật không lời, không màu, không sắc cùng một vóc dáng của thủ pháp, thủ ấn hay thư pháp; là sắc tố có tính chất nghệ thuật điêu luyện hơn là nghệ thuật trình diễn. Bút pháp là lối chơi chữ theo kiểu viết đẹp –Calligraphy; it mean for ‘beautiful writing’. Là một nghệ thuật mà nơi đây chữ và hình tương giao vào nhau, nơi mà người nghệ sĩ cố công tạo vào đó một hình ảnh bày tỏ qua ‘con chữ / the word’ là lời nói vượt hẳn của người viết chữ có tài năng; nghĩa là giữ đúng văn bản trong thế đứng nguyên vẹn và hoàn hảo đầy niềm tin ở nó –the meaning of words in a way that transcends the text while remaining completely faithful to it. Bút pháp là một nội công mang vào đó một tinh thần có ý nghĩa và tăng thêm thi vị hóa cho một hiện hình đã tỏ ra trên mặt chữ, biểu lộ như một kích thích tố vào mọi giới, hầu như nó có một ngữ ngôn để nói lên, một văn hóa cách riêng mà người Trung Hoa dày công tu luyện coi nó như ‘đạo chữ’ giống như trà đạo của Nhật vậy. Một thứ nghệ thuật của con chữ -art of the word- một diễn giải ý nghĩa thâm hậu, vừa phô diễn một thái độ tài hoa phong vị thủy của con người lịch lãm để từ đó trở nên một tập truyền của người Á đông, đặc biệt ở Trung hoa coi như lối tượng hình (pictograph), đặc chất của nghĩa chữ là phong thái mang lại cuộc đời mới hơn, nó được coi như vũ điệu ba-lê lả lướt, bay nhảy trong trí (choreography) đưa từ trạng thái bình thường đến trạng huống bất ngờ, tuyệt thú.

Chữ tượng hình qua vật thể hoặc dựa vào đó để mô tả và đọc thành tiếng; khi chữ và nghĩa sát nhập vào hồn người là lúc người ta bắt đầu biết qúi con chữ để viết thành văn thơ và nắn nót từng chữ như diễn tả cho một nội thức qua từng mạch chữ bằng tất cả giác quan và ý thức, một thứ ý thức tiềm ẩn và bao hàm, khiêu gợi trong một ý thức thâm sâu của những gì thuộc khoái cảm qua từng nét chấm phá và từ chỗ đó người chơi chữ bắt đầu sáng tạo con chữ phóng khoáng và mới lạ hơn, phát sinh ra lối viết chữ đẹp là chịu ảnh hưởng những văn tự đục trên đá, trên gỗ. Bút pháp nhập cuộc như hội họa và điêu khắc xâm nhập vào thi ca cũng như văn chương đáng chú ý nhất là ở Trung quốc, phơi mở một nội tâm qua cách diễn đạt mới. Thư pháp ngoài việc phát huy qua ngọn bút lông là cả tấm lòng rộng mở, khoan dung nhưng phải bén nhạy và linh động qua đôi mắt rung động và đôi tay uyển chuyển trên từng ngón xuân nồng, bởi;người nghệ sĩ viết theo lối thủ pháp, thủ ấn hay thư pháp là họ đang đối diện với cái đẹp nội tại, nghĩa là nhập định trong tinh thần coi chữ là nghĩa hòa nhập vào trong một chữ, khiến cho người chơi chữ quên hết ngoại giới và từ chỗ đó chữ viết đi vào trạng thái trực giác hình tướng. Viết chữ Hán cũng là một thứ nghệ thuật vẽ. Vương Duy đời Đường (Tang dynasty (618-907) cho đó là nghệ thuật hình tượng, bởi; người nghệ sĩ chơi chữ nhìn thấy: giấy, bút, mực  là một tác động đưa người nghệ sĩ phiêu lưu vào hình ảnh của ‘rồng bay phượng múa’ và tạo cho con chữ trở nên hình tướng của chữ như một mô tả sự vật. Bút pháp là một sự cần thiết cho ngữ ngôn của tâm hồn, gần như một thứ trừu tượng Đông phương (Orietal abstraction) hòa vào nhau cùng một thể, hấp thụ vào những gì cần thiết mà người xưa đã để lại và thêm vào đó một sáng tạo độc đáo cho một thủ pháp riêng biệt, hòa tan vào trong đó một thứ luân lý đạo đức có từ một sự ngưng kết (concreteness) thấm thấu khi thành hình mặt chữ nhất là thi ca và hội họa. Bút pháp được coi như chủ nghĩa hình tượng (Imagism). Tiện thể nói qua Vương Duy: ông là một trong tứ đại thi nhân đời thịnh Đường (Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị và Vương Duy) Vương Duy ngoài thi ca còn là họa sư, một tay bút pháp lừng danh và thiền họa thủy mặc Nam phương. Tô Đông Pha nói về Vương Duy: ‘Trong thơ có họa, trong họa có thơ / Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi’ đặc biệt thư pháp viết lên thơ là biệt tài của Vương Duy. Thành ra thủ pháp là một hình thái quan trọng khác cho một biểu trưng của con chữ; đôi khi nhìn vung vãi, quệt quặc nhưng dưới mắt nghệ thuật có thể là đẹp do đường nét uyển chuyển và màu mực tạo cho chữ viết có một sắc thái ở bên trong lẫn bên ngoài. Nhớ cho điểm này: thơ Vương Duy là biểu tượng cho dòng thi ca tượng hình (bút pháp). Ông chuốt vót từng con chữ như lối chơi chữ; từ chỗ đó biến thành vẽ chữ, mà Đường thi là thể thơ cô đọng, lời vắn tình dài nhất là thể thơ tuyệt cú, ngay cả việc chấm phá con chữ mang tính chất nghệ thuật hội họa thủy mặc. Bài thơ nổi tiếng của Vương Duy là một trong ba trăm bài thơ Đường hay nhất chất chứa một phong cảnh thiên nhiên qua thời tiết, hoa lá cành sum suê ở đất Vị. Bài thơ ‘Vị Thành Khúc’ của đại nhân họ Vương  như sau:

Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần

Khách xá thanh thanh liễu sắc tân

Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu

Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.

Mà Bùi Giáng cho rằng đã đạt tới  cõi đạo vô ngần của Vương Duy và đã được thi sĩ họ Bùi dịch một cách tài tình, vượt thoát một cách siêu độ. Tiếc thay nguyên bản gốc bằng bút pháp không còn tại thế để tồn lưu, tồn lại cho nhân gian; với tiết điệu của Bùi Giáng cũng đủ cho chúng ta thấy con chữ nó trào ra như suối nguồn như cá gặp nước như rồng gặp mây với ý thức sống động của từng con chữ:

Vị Thành mưa sớm mù tăm

Cõi miền bụi ướt thấm đầm ngõ thuôn

Quán mờ liễu thắm thắm xanh buông

Mời anh cạn chén rượu buồn tiễn chân

Tiền trình quan ải tây phân

Đèo truông ra khỏi cố nhân không còn. (Bùi Giáng-Mùa Xuân trong thi ca).

Như thế cũng đủ thấy chữ và nghĩa nó tung hoành như thế nào. thi sĩ Bùi Giáng đã ‘bút pháp’ còn hơn cả bút pháp mà chúng ta từng chiêm ngưỡng.Tuyệt chiêu là ở chỗ đó. Không nên lý tài có với không mà làm cho tâm tư rối loạn, đụng chạm tới con chữ của bút pháp, bởi; cái sự phóng khoáng của con chữ là thần dược giải bệnh để cho tâm hồn trở nên thanh cao thời mới được phần thanh cao mà cụ Nguyễn Du đôi lần bóng gió qua thi ca. Đấy là sự cần thiết của đạo-chữ. Điều gì thật sự cần thiết, thật sự có lợi ích ấy là Đạo -và sau hết; nó trở nên hiện hữu tối thượng –What is really essential; really productive is the Way -after all; becoming is superior to being. Đây! lấy câu chuyện này ra ví phỏng bút pháp của người chơi chữ; một thứ nghệ thuật không gia truyền nhưng để lại cái gia truyền của con chữ và từ đó nối tiếp như ngón nghề thông thường để trở nên đam mê, nhưng mỗi chặn đường là mỗi kinh nghiệm thu tập. Danh họa Nhật Bản Hokusai kể: ‘Tất cả những gì tôi vẽ trước tuổi 70 không đáng nói tới. Chỉ tới tuổi 73 tôi mới hiểu đích thực hình tượng của sinh vật và bản chất đích thực của cỏ cây…tới 90 tuổi tôi sẽ tới gần cốt tủy của nghệ thuật…tới 110 tuổi mỗi chấm, mỗi nét trong tranh của tôi sẽ có một đời sống riêng…’Từ đó suy ra bút pháp chỉ sống mãi sau cái chết của người chơi chữ. Và; bút pháp còn gọi là bút tích; thậm chí những người yêu chữ lại là kẻ sĩ nghèo khó cho nên có hay chữ chẳng mấy ai ngó ngàng. Mà thật; xưa nay là thế. Lấy hai câu thơ của Lý Bạch trong bài thơ ‘Minh Phi’ như một lời an ủi bởi phải đam mê mà đời quên nhưng được cái để tiếng thơm nơi cái tồn lại nhân gian: ‘Sinh pháp hoàng kim uổng đồ họa / Tử lưu thanh trủng xử nhân ta …’(tam dịch: sống thiếu cân vàng tranh vẽ lọ / Chết phơi nắm đất cỏ xanh rì). Ngần ấy cũng đủ thấy người chết chớ tranh không chết. Lý cho sát vấn đề thì bút pháp là phương tiện chuyên chở cho con chữ chớ con chữ không phải là phương tiện ‘hành pháp’ của bút pháp. Như đã nói; chúng chỉ đan kết vào nhau để tạo hình tướng, dung thông vào nhau để bày tỏ, nó cô đọng trong một tâm thức thoát tục để được trở về trong cái tồn chứa, một dự trữ của người chơi chữ, không có gì cho mình mà cũng chẳng cho ai, nó chỉ để dành cho một tồn lưu nhân thế, tồn lại như ‘thanh trủng’, mát mặt với đời tất nó không tồn lui mà phải tồn tới. Kẻ không biết dụng võ là thứ tồn lủi giữa thế gian này. Bút pháp ngó giống nhau nhưng không giống nhau, bởi; mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười; vả lại bút pháp là một đặc thù của lối vẽ. Nó chứa một mãnh lực vô tiền khoán hậu cho hai cái sự phân tích siêu đẳng tối thượng thừa: có người cho rằng có kẻ xem tranh bằng tai và cũng có kẻ nghe nhạc bằng mắt nhưng bút pháp vi diệu hơn là nghe được tiếng cười, tiếng than của con chữ và có lúc thấy con chữ khóc bằng mắt trên phiếm ngà. Nghe qua tưởng như lý tài chủ nghĩa, ca bài con cá nhưng đi vào lòng đất mới thấy có lửa còn đứng ngoài la toáng lên hay với dở, nhất có mình tôi là thứ tồn loạt cho cái thủ thế, độc diễn mà thôi. Rởm!

Bút pháp coi giản đơn, nhẹ nhàng nhưng chất chứa vào đó tất cả tập truyền phong phú (richness) là một thú chơi chữ vô cùng tận (inexhaustible) tợ như lối thả-thơ của chúng ta. Đời nhà Đường coi tục bút pháp, thư pháp hay thủ pháp là một trao đổi giao lưu đến từ thi ca cổ điển của Trung hoa. Lối chơi chữ của thi nhân ở cái thời liên tu bất tận, một thứ văn hóa về chữ và nghĩa là gốc ngọn  đã được quay về một ngàn năm trước kỷ nguyên của chúng ta. Nó đạt tới đích dành cho thi ca mà trong đó là một liên tưởng tới bút pháp và họa. Trong điạ hạt thi ca có ba đại diện tầm cở ngoại hạng: -Lý Bạch, người có khuynh hướng nghiêng về chủ nghĩa vô vi, thoát tục (tự do) của Lão Tử. -Đỗ Phủ coi thuyết Khổng Tử là chủ yếu, là tiếng thốt đầu đời, là nổi khổ hạnh của nhân loại nhưng cũng là một một sự bao la kỳ diệu ở tự nó mà ra. -Vương Duy thích hợp vào Thiền Phật giáo hướng vào đời, nắm vào tĩnh lự làm nồng cốt để phát huy và sáng tạo trong thơ cũng như trong thư pháp. Bên cạnh đó; về sau có Mạnh Hạo Nhiên và Giả Đảo đã bày tỏ cái thanh cao sơ sài trong cái tâm như nhiên là vượt thoát ra khỏi giao động tự phát. Người xử dụng bút pháp là tập trung trí tuệ, tĩnh lặng, cách xa với ngoại giới, giữ nó trong trạng thái trầm tư, tự định và phải có một ý thức quán triệt sự vật qua thư pháp để mô tả một sự thật bên trong con chữ, phản ảnh một đời sống nghệ thuật cao qúi, một sự khắc khổ của con người cứng rắn nhưng làm thế nào là dồi dào và sanh lợi cho một hiện hữu sống động là hơi thở cần thiết của con người; bút pháp phải là một tâm hồn rộng mở, tiếng đập dồn dập, rạo rực của tim đi vào vũ trụ của chữ và nghĩa, khám phá cái thâm sâu cùng cốc của ngữ ngôn mà bút pháp là một hiện hữu bên trong của người chơi chữ. Giữa những trạng huống như thế là thể cách khác nhau cho một hiện hữu tồn lưu trong nghệ thuật bút pháp của người Trung hoa; ở đó chỉ một điều trọn vẹn đặc biệt mà chúng ta tìm thấy trong một thể cách trong sáng, một biểu lộ chân thật giữa chữ và người qua bút pháp. Mỗi một chữ của bút pháp là một hình tượng biểu lộ qua ý thức (ideogram) như dẫn vào đó tư tưởng thi ca hoặc có màu sắc thuộc triết lý mà mỗi thứ nó chứa đựng chất liệu trong từng môi trường và đặc trong một không gian với tác phong đa diện có tính chất của: trống không, trí tuệ, đường lối và tĩnh lự.Những thứ đó quấn vào nhau trong một nội tâm thoát tục mà chỉ để lại tinh anh của ‘hương vị’ đặc trưng và tạo được nét thẩm mỹ trong ý niệm qua sự xuất thần đột khởi giữa chữ và ý với một tương thức như nhiên.

Vậy sự gì gọi là thi vị hóa dành cho bút pháp của Trung hoa? Và; ngay cả sứ mệnh thiêng liêng mỗi khi xuân về trên đất nước ta với ‘thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ’? Liệu có tồn lưu, tồn lại và tồn lợi đối với dân gian hay chỉ chơi qua rồi bỏ? Mà phải thừa nhận nó là nghệ thuật. Không còn ngại nghi để phải tốn công sức bắt đầu hay lý giải nguồn cơn tự sự trở lại, bởi; nó hiển nhiên tự có như đã định vị, như thi ca, như văn chương. Con đường đó chỉ là tư duy xuyên qua cho một biến hóa mới, không có chi là thâm sâu cùng cốc mà là một phơi mở tột độ bên trong và bên ngoài của linh hồn con chữ với một tập quán thông thường có tính chất nghệ thuật, một thứ nghệ thuật bút pháp đả thông tư tưởng qua trí tuệ. Con đường đó tiếp tục khai triển, dù chỉ có một; thế mà vẫn chưa đi hết dăm trường đã vạch và chưa khám phá cái mới lạ nơi con chữ; nhưng tựu chung chỉ một cõi đi về của bút pháp mà thôi ./.

VÕ CÔNG LIÊM (ca.ab.yyc. cuối 7/2017).

ĐỌC THÊM: ‘Chơi Chữ” Tùy bút của võcôngliêm. Hiện có trên một số báo mạng và giấy trong và ngoài nước hoặc email như đã ghi.

TRANH VẼ: ‘ Bút pháp của tôi / Calligraphy of mine’ Khổ 12” X 18”. Bút lông trên giấy báo nhựt trình. India-ink. vcl#2372017.

ĐÀO HOA NỞ MUỘN

Gallery

This gallery contains 1 photo.

Đặng Xuân Xuyến
CHUYỆN ANH CHÀNG
ĐÀO HOA NỞ MUỘN
*

Anh sinh năm 1953, ở Hà Nội, giàu lắm, có mấy cái nhà mặt phố cho thuê, toàn cỡ vài chục triệu/tháng nhưng đường vợ con của anh thì lận đận lắm. Đến tận năm anh rất luống tuổi mới biết yêu, nên vội cưới. Nghe em rể anh kể, thì “chị” sinh năm 1984, hình thức cũng thuộc diện xinh gái, khéo ăn khéo nói, người Hà Nội, gia đình cũng khá giả, kém anh “chỉ có” 31 tuổi, mà anh là con trưởng, lại ở thế độc đinh, xưa tới đó chưa từng biết chuyện gái gú là gì nên cả gia đình gật đầu tắp lự khi anh đưa “chị” về ra mắt, tuyên bố sẽ cưới “chị” làm vợ. Cưới được hơn năm, “chị” sinh cho anh cậu ấm, giống anh như tạc nhưng chả hiểu sao từ ngày sinh được cậu ấm, “chị” đâm ra đổ đốn: Cãi bạt mạng khi anh nhắc nhở chuyện a, chuyện b trong văn hóa ứng xử; chị còn tự mình đặt ra quy định thế này thế kia với họ hàng ruột thịt của anh trong khi anh là người làm ra tiền, là người đang “cầm chịch” lễ nghi của dòng họ. Cãi nhau vài bận, chị đâm đơn ra tòa. Anh gật đầu cái rụp. Cũng chẳng cần ý kiến của tòa, anh hâm hâm đề xuất: Phụ cấp 10 triệu/tháng cho cậu ấm, đưa luôn cả 17 năm 3 tháng (thời điểm cậu ấm tròn 18 tuổi) cho gọn. “Chị” đề xuất anh chi thêm mấy trăm triệu để “chị” mua tạm ngôi nhà nho nhỏ làm nơi tá túc. Tiếp tục đọc

NHỮNG CHUYỆN TÌNH

Võ Công Liêm

gởi: lê thị huệ (gió O).

BUỒN ƠI CHÀO MI / BONJOUR TRISTESSE By Vo Cong Liem

  1. BUỒNG TRỐNG

Quyên nhấp nháy đôi mắt lá răm, đưa tay chụi vào mắt, nắng bên ngoài đã lên cao. Nàng mở to mắtnhìn qua cửa sổ; cảnh vật trong và ngoài nhà lặng chìm như bãi hoang. Nắng xối vào nhà thứ ánh sángnhạt nhòa với một âm khí khó thở, lạnh ngắt, không một tiếng rì rào hay tiếng gió từ ngoài thổi vào. Quyên còn nằm trên giường, đưa mắt nhìn mọi thứ xung quanh gần như không mấy để tâm. Chiếc bàntròn bằng gỗ thông cũ kỹ, bạc màu sơn như ván hòm, trên bàn chén, tách, nửa ly nước trong, cái đĩacon cá xanh đựng vài ba trái ổi sẻ chín rục, hai trái chuối mật ngã màu nâu như muốn xé vỏ ra chiên;tất cả đều nằm đó từ ngày hôm qua. Hai cái ghế một ở cạnh bàn ăn, một đặc ở giữa căn buồng, cà hailà ghế gỗ đời xưa. Ở góc trái kê cái bàn nhỏ có nồi cơm điện và lò nấu. Bước tới một khoảng là nơitắm rữa. Quyên nhìn từ vật này đến vật khác, có lẽ; cái tủ áo quần bốn ngăn kéo được nàng chú ý đến.Quyên không chịu dậy, trăn trở với chăn gối. Nhìn vào bốn bức tường, Quyên nói chuyện với trần nhà,nói chuyện với tủ áo quần, nói chuyện với con thằn lằn trên vách nhà. Nàng sải đôi cánh tay trêngiường, chân đạp chọi trong chăn. Nàng đưa tay xuống dưới gãi vào háng. Nàng ngừng lại và nhìnmông lung một cách say đắm. Quyên bung người kéo quần lót lên cao và đi thẳng tới chỗ tắm. Tóc ướtrớt trên vai. Phơi nắng bên cửa sổ, mình trần. Nhìn ra ngoài sân hai con chim sẻ đang đập cánh vàonhau. Quyên nhớ tới Thức. Bên kia tường bằng gạch, vôi lở; tuồng như buồng chưa có người thuê

.2. TRỞ VỀ

Lên đệ nhị cấp là lúc Mai Trâm cảm thấy có thay đổi trong người, đổi thay từ vóc dáng đến tâm hồn.Nàng tỏ ra trầm lắng hơn xưa, nhiều suy tư về cá nhân cũng như về đời. Những bạn đồng lứa nghe đâuđứa có ‘bồ’ đứa có người yêu. -Chắc chắn đẹp lắm mới có người để mắt. Mai Trâm thầm nghĩ. Nàngcũng muốn có như người ta có để được mộng mơ, để được nâng niu.Trên đường từ trường về, ngọngió chiều ập tới thổi ngược chiếc áo dài màu lam ngọc lên cao che cả mặt mày; nàng chới với và tỏ rathẹn thùng. Tâm hồn nàng luôn rạo rực, rạo rực vô cớ nhưng cảm thấy yêu đời. Nàng mỉm cười.Nghe lệnh song thân. -Cuối năm đỗ đạt hay không phải đi lấy chồng. Cha nói. Chưa bao giờ trong đờinàng có một cái ‘sốc’ lớn như vậy. ‘Tuổi đá buồn’ cần có hẹn hò trăng nước với thiên nhiên với ngườitình đó là niềm ao ước và tự hào so với bạn đồng niên. Từ chỗ đó Mai Trâm buồn và tuyệt vọng, bởi;đời là cả một cuộc trá hình, có dự mưu. Lễ giáo cổ truyền là luật ‘ép dầu mỡ’, buộc vào những điều vôlý và cho tình yêu là tội ác. Mai Trâm đau nhói con tim dù chưa một lần đụng tới tình yêu. Mai Trâm bây giờ là hai mươi lăm, một người đàn bà có nhan sắc, có chồng con. Cái sự vây quanhtrong đời sống mỗi lúc tăng thêm tầm thường; sáng đi chiều về, nồi cơm trách cá không tìm thấy‘thiêng liêng’ của tình yêu hòa vào trong đó; dù là làm tình bên nhau. Mai Trâm muốn khám phá cáimới lạ của cuộc đời hơn là sống trong bốn bức tường tù đày. Mai Trâm muốn tìm thấy giá trị nơi conngười mà nàng cảm thấy hụt hẫng như đã một lần trong đời. Nàng bỏ lại tất cả và ra đi. Đến Đà Nẵng thì trời chập tối. Nàng đi thăm cảnh quang để hòa điệu vào đời bằng những gì lý thú, đổithay tâm hồn mà bấy lâu nay như chim trong lồng, khát một bầu trời tự do. Trong đám người thamquan, người ta đua nhau chụp hình cảnh đẹp, vai kề vai. Mai Trâm lặng bước trong một suy tư kháccủa nửa vời, của vắng bóng gia đình. Cảnh vật chung quanh biến mất. Hình như nàng ân hận điều gì?Mai Trâm quyết đuổi để tìm thấy sự đổi thay của tâm hồn. Sau lưng Mai Trâm nghe như có ngườiđang chụp hình về mình. -Nếu cô cho phép được chụp hình cô. Người thanh niên nói. Rất đổi ngạcnhiên lời yêu cầu đó. Mai Trâm cười và đồng ý để cho chàng thực hiện. Điều người ta muốn, có lẽ;như mình muốn. -Tôi thích chụp hình cô. Cô đẹp! Người đàn ông nói. Thật ngẫu nhiên và từ đó họcảm thấy hào hứng trong chuyến đi chơi xa. Họ trao đổi tự nhiên như đã quen nhau. -Anh còn đi họchay đã đi làm? MaiTrâm nói. -Tôi đi làm. Người đàn ông nói. Bên tách cà phê Mai Trâm không e lệ,không ngại ngùng trước kẻ lạ mặt. Khi khám phá ra đàn ông ở chính mình thì hình như họ không đángsợ. Sự thật của đàn ông chỉ có một nửa trong đó. Nhưng; chàng thanh niên nầy có phần khác lạ và hấpdẫn hơn. -Quên hỏi anh tên gì? Mai Trâm nói. -Kha, Vũ Kha. Người đàn ông nói. -Tôi Nguyễn thị T.Mai Trâm nói. Từ chỗ đó họ gần như tình tự hơn, không ngại nghi mà cả hai đã tìm thấy sự thật củamộng mơ. Như đã tin nhau họ có những cuộc hẹn hò chớp nhoáng; cả hai đã rơi vào tình yêu. Đêm ở tỉnh lẽ; tình yêu buộc họ phải làm tình, tác động đó cuộn vào nhau ở tuổi chín muồi; họ ôm lấynó như khát khao, họ thỏa thê nó như giấc mơ, họ làm tình nó như chưa bao giờ làm tình. Họ nhận racái giá hạnh phúc của tình yêu là ở đó… Di động hiện ra. -Xin lỗi tôi có điện gọi.Vũ Kha nói. Ngồitrên giường Mai Trâm nghe rõ lời đối thoại của người tình. Tuyệt vọng. Nàng vội vã thu xếp và đón xe
về lại chốn cũ. Tới quê nhà, trời đã ráng chiều, đèn đường bực sáng. Định đón Mai Trâm ở phi trường.-Anh và con nhớ em. Anh đưa em đi ăn phở nhé. Định nói. Mai Trâm ví mình như con dê tế thần chưatoát hết mồ hôi. Chuyến đi giải trí của nàng chỉ là giấc mơ không thực giữa đời này. Nàng đã vượtbiên giới không gian để tìm thấy. Lần trở về Mai Trâm nhận ra ở chính mình một tình yêu lớn hơn

.3- TRỘM TÌNH

Phúc và Yến lấy nhau ở tuổi thanh xuân. Tính ra họ sống bên nhau có ba mặt con, một trai hai gái.Cả ba trẻ mặt mày khôi ngô và tính khí không giống Yến. Bề ngoài của Phúc hiền lành, ít nói; nhìnqua như người mắc chứng lãnh cảm. Yến yêu chồng sáng đi chiều về, mọi ngày như mọi ngày ngoạitrừ đi công tác xa. Yến vui vẻ, an tâm cho người chồng hiền lành giữa cảnh đời lắm thứ bon chen. Phúc giám đốc cho một công ty sản xuất, bên cạnh có nhiều cộng sự viên; đứng về mặt tình cảm thìkhông mấy ai thân tình với Phúc. Ít ăn, ít nói, vô tư của Phúc được người ta tín nhiệm và làm ăn chotới ngày nghỉ hưu. Về già người Phúc trầm lắng hơn, đưa mắt nhìn xa, không ai biết trong người Phúcnghĩ gì mà thường vác mặt nhìn trời. Vợ khuyến khích nên đi dã ngoại cho tâm hồn thư thới. Phúc nởnụ cười hài hòa. Và; từ đó thường hay đi lại lắm lần. Nhớ lại; hồi mới nhậm chức ở công ty là mộtchạm trán với Nhi (người đẹp của công ty). Phúc Nhi gặp nhau bất chợt ở cuối phòng vật tư. Qua câuchuyện bình thường họ thầm yêu; một bên nhan sắc, một bên làm lớn. Hợp ý đôi bên. Cơ quan chẳngai để tâm và tin chắc Phúc không phải hạng ‘ăn chơi’ cho nên trong sạch từ tinh thần tới thể xác. Phúcgiữ thói quen tợ như ngựa quen đường cũ thích đi dã ngoại hơn ở nhà. Sự im lặng tuyệt đối chỉ cómình Phúc biết; không một ai nhận ra bên trong con người ‘lãnh cảm’ đó. Nghỉ hưu đâu được hai nămPhúc chết đột ngột chưa kịp viết di chúc. Toàn quyền trong tay Yến. Trong buổi lễ động quan, kháchvà thân hữu đến tiễn đưa người bạn, người thân hiền lành sớm ra đi. Tang gia đang bối rối có mộtkhách lạ, Yến nghĩ là nhân viên cũ của Phúc đến đưa đám. Đi bên cạnh với một thanh niên chừng hailăm tuổi. Mặt rũ rượi không nói. -Thưa chị em là Nhi và đây là Lợi. Con của anh Phúc đấy!

võcôngliêm

GIÁ CỦA SỰ THÁI QUÁ

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

ao-do-bong

Chị vỗ đét cái vào mông anh rồi trề môi, cong cớn: – Eo ơi, già rồi mà còn trẻ con lắm! Gần năm chục tuổi đầu rồi mà nhí nhảnh con cá cảnh lắm cơ…. Đời thủa nhà ai, tóc đã bạc trắng mái đầu rồi mà bày đặt níc nêm là em còn bé lắm… Ơ, mà chồng xưng em với ai thế… Chẳng lẽ chồng xưng em với vợ?

Anh đỏ mặt, ấp úng:

– Thì đặt thế cho nó lạ,… chứ em với ai đâu?

Chị sầm mặt:

– Thế là không được! Thế là chồng không trung thực, chồng gian dối với vợ! Chẳng ai đặt níc nêm lại không có nghĩa cả? Thôi chết! Hay chồng phải lòng mụ bán xôi đầu ngõ mới xưng em ngọt ngào như thế? Chả trách, chồng toàn khen xôi nhà mụ ý vừa ngon vừa rẻ. Tháng trước, vợ đánh dấu 5 lần chồng ăn xôi nhà mụ ý đấy.

Anh gãi gãi đầu, giọng có chiều “nể vợ”:

– Thì xôi nhà bác ấy ngon và rẻ thật nên chồng mới ăn. Mà… năm ngoái vợ chả khen xôi nhà bác ấy nấu ngon, sạch lại bán rẻ còn gì? Vợ chả nhắc đi nhắc lại chồng phải thường xuyên ăn xôi ủng hộ nhà bác ấy đấy thôi…

Chị tròn mắt nhìn anh rất lâu, rồi thẽ thọt:

– Thật không? Có đúng là vợ nhắc chồng như thế không? Mà… Vợ chả tin đâu! Vợ chả dại xúi chồng như thế đâu! Nhìn mụ ý cứ hơn hớn hơn hớn như thế, nỡ mụ ý có ý gì với chồng thì chết à? Chồng có nhớ cái vụ năm kia không? Nhớ không?… Ối dào… Chắc chồng lại cãi đấy là tai nạn chứ gì? Vợ biết tỏng chồng mà… Thế nào chồng cũng nói là tai nạn… Thôi, chồng đừng có định cãi vợ nữa… Như thế là không trung thực, là gian dối. Mà chồng biết đấy, vợ rất ghét ai có tính không trung thực, rất ghét ai có tính gian dối. Chồng nhìn chồng bác Nga mà học, cả đời chẳng biết cãi vợ câu nào… Ngoan ơi là ngoan. Đâu giống chồng, vợ chưa nói xong câu mà chồng đã cãi năm cãi bảy. Vợ nói rồi, vốn kiệm lời nên vợ đâu thích nói nhiều… Mà… vợ đang nhắc chồng chuyện gì nhỉ?

Anh lụng bụng:

– Chuyện xôi nhà bác đầu ngõ.

Chị quệt tay vào mép rồi lấy khăn lau tay, lau đi lau lại, kỹ càng lắm. Chán chê, chị lại dài môi, thẽ thọt:

– Có đúng là vợ nói chuyện xôi nhà bác đầu ngõ không? Ồ đúng rồi, xôi nhà bác ấy ngon, sạch sẽ mà rẻ lắm cơ… nhưng mà vợ không ưng cái thái độ nhà mụ ấy, vợ chúa ghét cái thái độ của mụ ấy… Đàn bà có chồng có con rồi, lại cứ đon đon đả đả với đàn ông là làm sao! Vợ thấy như thế là vô duyên, là lố bịch…. Vợ thấy chướng mắt! Vợ không ưng!

– Nhưng bác ấy bán hàng, phải thế.

Chị dài giọng, trề môi:

– Bác ấy bán hàng, phải thế… Biết ngay mà. Vợ biết tỏng chồng sẽ bênh mụ ấy như thế mà…. Sao không để chồng mụ ấy ra đon đả với chồng mà lại là mụ ấy. Eo ơi. Rõ là có tình ý với nhau nên bênh nhau cứ chằm chặp, chằm chặp ý… Đàn ông ra đon đả với đàn ông, sao lại để đàn bà?

Anh ái ngại nhìn mọi người, rồi khẽ khàng với chị: – Bác ấy vừa ngồi bán hàng vừa mời chào khách chứ có đon đả kiểu như vợ nghĩ đâu…

Chi lại trề môi, chừng muốn dỗi:

– Đấy! Lại cãi! Sao chồng toàn bênh mụ ấy thế? Chồng sợ miệng mọc da non sao mà cứ nhem nhẻm nhem nhẻm cãi vợ? Như thế là không trung thực! Như thế là giả dối! Mà chồng biết rồi đấy, vợ rất ghét ai không trung thực, vợ rất ghét ai sống giả dối… Mà… Mà có chuyện gì không trung thực ở đây nhỉ? (Chị vỗ vỗ đầu một lát rồi hí hửng)… Đúng rồi! Là chuyện tình cảm giữa chồng với mụ bán xôi đầu ngõ… Như thế là chồng không trung thực. Như thế là chồng giả dối. Mà chồng biết rồi đấy…

Anh gắt: – Là đủ rồi! Người ta bán hàng phải tươi cười mời chào khách lại bảo người ta lố bịch? Hàng xóm láng giềng, một tháng mua ủng hộ có 5 bữa sáng mà kêu nhiều là sao? Lại nữa! Người ta là người đàng hoàng sao cứ một điều mụ ấy, hai điều mụ ấy là thế nào? Hở?

Chị co chân lên ghế, nghiêng người, lấy khủy tay che che mặt, ấm ức: – Eo ơi… Sao chồng lại quát tháo vợ như thế? Chồng không nhớ là vợ bị yếu tim à? Hay chồng không coi vợ ra thể thống gì nên mới thế? Vợ biết tỏng chồng mà… Giờ vợ già rồi, vợ xấu rồi nên chồng không chiều chuộng, không nâng niu vợ nữa… Thế này thì vợ chết quách đi cho rồi! Vợ chán sống rồi! Vợ… Vợ… Vợ sẽ đi chết đây!

Chị nhìn anh. Nhìn mọi người. Rồi lại nhìn anh.

Thấy mọi người ngoảnh mặt đi, không nhìn chị, còn anh vẫn “đằng đằng sát khí”, chị sụt sùi:

– Vợ biết mà. Chồng không còn yêu vợ nữa nên chồng kiếm cớ để chê vợ, bỏ vợ. Số vợ khổ, khổ lắm nên mới lấy phải chồng… Chồng quên rồi à? Ngày chồng còn đang cưa cẩm vợ ấy, chồng hứa những gì? Chồng thề thốt những gì mà bây giờ chồng phũ phàng với vợ như thế… Ối giời cao đất dày ơi… Ới hàng xóm láng giềng ơi… Ới bạn ới bè ơi… Mà này, chồng đi đâu đấy?

Anh không trả lời, khoác áo, bước nhanh ra cửa. Chị chạy theo, níu áo, gặng: – Chồng đi đâu đấy?

Anh hất hàm: – Muốn biết thật à? Đi ra quán xôi làm chầu “tình cảm”. Ở nhà với vợ mệt đầu lắm.

Chị luống cuống: – Chồng ra đấy thật à? Thế chồng định đi ra đấy một mình à? Không! Vợ sẽ đi cùng chồng. Vợ cũng đang muốn chầu “tình cảm” với xôi đây…

Mồm nói, chân bước, chị khoác tay anh rất chặt.

Bước chân vào quán, chị cố khoác tay anh thật tình tứ. Rồi vênh mặt lên như để cho mọi người biết anh và chị yêu nhau lắm, lắm.

Ái ngại với mọi người, anh khẽ nhắc chị:

– Vợ đừng khoác tay chồng nữa, mọi người nhìn vào, ngại chết.

Chị phá lên cười, rồi bẹo má anh, nũng nịu:

– Eo ơi… Chồng lại bày đặt làm bộ e thẹn, ngượng ngùng nữa chứ? Yêu chồng lắm cơ!

Chị kéo ghế ngồi xuống. Một tay vuốt tóc, một tay gắp miếng xôi, nghiêng nghiêng đầu nhìn anh, rồi chậc chậc lưỡi, giống kiểu ở nhà chị vẫn nựng cu tí ăn bột: – Nào… Chồng há mồm ra,… há to tí nữa nào… Ừm… Ừm… Thế… Thế… Eo ơi nhìn chồng ừm yêu lắm cơ… Gớm, sao nước miếng của chồng tứa ra nhiều thế? Há to tí nữa nào… Thế… Thế… Chồng ừm cái nữa để vợ xem nào! Hoan hô chồng! Chồng ừm giỏi lắm!…

Anh gạt tay chị, vẻ khó chịu, làu bàu:

– Vợ đừng làm thế. Mọi người cười cho đấy.

Chị trề môi rõ dài, rồi nguýt: – Gớm! Mọi người cười cho đấy… Mọi người nào ở đây? Chồng ngại chị chủ quán chứ gì? Vợ biết tỏng trong đầu chồng nghĩ gì rồi… Hôm nay, nhất định … Vợ… Vợ… vợ phải làm cho ra ngô ra khoai mới được…

Chị giậm chân. Chị chắp tay vào hông. Chị tiến lại chỗ chị chủ quán, chưa kịp la lối thế này thế kia thì anh giang tay tát bốp một cái, rõ đau, rồi lôi chị xềnh xệch về nhà. Vừa đi anh vừa gằn giọng:

– Bà làm tôi xấu hổ với mọi người. Tôi sẽ khâu mồm bà lại để bà hết thói lắm điều! Tôi… Tôi xấu hổ vì bà.

Chị tái mặt.

Chị lắp bắp mãi không thành câu.

Hình như chị chưa lường được tình huống này thì phải!

*.

Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2015

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

.

ANH RA ĐI MÙA THU

VÕ CÔNG LIÊM

thularoi

Hãy quẳng mình đi như một cái bị rách.
(đại sư Tuệ Giác)

Hắn ngồi thừ người; đếm những mùa thu đi qua trong đời. Gió từ xa vụt tới quất vào người hắn, tóc dựng ngược, mắt nhìn lơ láo vào khoảng trống trước mặt. Hắn hình dung lại những chặn đường trước đây, khi còn sống ở đô thị đầy ấp những mộng mị những lừa đảo tất cả là phồn vinh giả tạo không đem lại một đời sống thiết thực cho bản thân hắn. Hắn thấm thấu được lẽ sống.Từ đó; hắn muốn đi thật xa. Bây giờ ngồi một mình trong mái nhà tranh vách đất nầy, nơi hắn tá túc một thời gian lâu khi mới về nhận nhiệm sở ở đây.

 Lần về thăm hôm nay; hắn gặp lại những người thân quen ngày nào, tuy già đi nhiều nhưng vẫn giữ được phong thái của mình, cảnh vật không còn như xưa. Ra khỏi nhà; ngọn nắng chiều trải lên mấy hàng cây xanh dọc bên đường dưới một màu thăm thẳm của nắng vàng làm tăng thêm cái nét dịu dàng của làng Phổ Hạ. Hắn thong thả đi về hướng đồi cỏ, trời đã rủ xuống. Rẽ sang phải để vào xóm Rột ở đó có nhà của Liễu; người mà hắn thầm yêu trộm nhớ.Tình yêu đối với hắn như báu vật chôn chết trong hang động. Không bao giờ khai quật.Trên đường đi hắn nghe tiếng ai gọi đằng sau: – Cậu Tân về hồi nào đó? Về thăm rồi lại bao giờ đi? Ngày mai ghé qua tui chơi. Hắn gật đầu, mỉm cười rồi lầm lủi đi.- Ai thế? Sao mình không nhận ra. Chỉ một vài năm mà hắn quên hẳn. Đầu óc hắn chỉ nghĩ tới Liễu.Vừa đi lòng mang máng buồn.Thấy cảnh vật đổi thay, người cũng đổi thay qua bao cuộc thăng trầm, đời đã dằn xéo dân làng nầy, cuộc chiến đã đè nát và chồng lên đây nỗi đau uất nghẹn. Chiến tranh thật tàn nhẩn, kinh khiếp! hắn ám ảnh cho tới bây giờ.Trong hắn chỉ còn cái đẹp thân thương giữa tình người, điều mà hắn tha thiết gặp lại đây và hy vọng tái ngộ người hắn yêu.

Hắn nhớ lại đêm giả từ Liễu để vô “bưng” vào một chiều cuối thu năm 196…Ngày ấy; chính là ngày Liễu hận lắm, hận sự chọn lựa của chàng; không biết rồi đây gặp lại, nàng có nhận ra cái bản mặt của hắn và liệu Liễu còn đối đãi như xưa ?

Căn nhà Liễu nằm lõm trong xóm, quạnh hiu. Bóng tối ập tới, những ngọn đèn dầu hỏa ám khói, leo lét chiếu qua khung cửa ô. Nhà Liễu tối om, hắn đến gần và nhận ra ông Nghị ngồi trên chiếc ghế độc ngoài sân,lửa thuốc trên môi ông rực lên, thứ ánh sáng lờ mờ, hắn nhận ra ông; già hẳn qua chùm râu thưa. Con Mực ngồi dưới chân ông gầm gừ muốn nhào tới nhưng kiệt sức vì đói, không buồn sủa mặc hắn với ông già. Họ vào trong, nhen ngọn đèn, ánh sáng chiếu vào hai gương mặt hốc hác bởi thời gian đấu tranh với cuộc sống. Họ mừng gặp nhau. Nhưng tuyệt nhiên không nghe thấy một dấu hiệu hay tiếng động nào có Liễu ở đó. Hắn làm sao quên được tiếng nói của nàng. Lần đầu đến đây với ông Nghị, hắn ngồi hầu trà cùng ông, thỉnh thoảng ngừng lại nghe rõ tiếng cười từ dưới vọng lên, âm thanh đó đã cho hắn một hình ảnh người đẹp, tiếng nói của Liễu có một hấp lực khác, ấn tượng trong đầu người nghe. Hắn nghĩ tâm hồn của tiếng nói tiếng cười đó phải trong sáng lắm mới có được thanh âm ấy. Một thanh âm trong suốt và vút cao tạo cho khuôn mặt trở nên hiền thục. Hắn ghi nhận điều đó đúng; qua một lần gặp Liễu. Giọng cười, tiếng nói ấy suốt đời chôn chặt trong tim hắn. Chàng không hỏi Liễu qua ông Nghị. Đột nhiên: -Con Liễu về dưới, sớm mơi về; cậu lại chơi. Ông Nghị nói. Hắn ấm ớ giả vờ. Ông già chỉ nói độc một câu ngoài ra không báo thêm một tin nào khác hơn về Liễu.Hắn lo ngại.

Hắn ghi đậm kỷ niệm đầu đời, lần gặp Liễu trên đường ra chợ Sạn. Nàng e lệ đi không nói, hắn cũng không nói cả hai cúi đầu song hành. Càng không nói Liễu càng đẹp, tóc nàng phủ kín bờ vai suông, gió dưới dòng sông thổi lên, tóc vướng vào mặt, nụ cười dấu trong đó. Hắn thấy vẻ đẹp của Liễu mà không dám mở đầu câu chuyện. Cứ đi như thế cho đến gần nhà ông Nghị hắn ngúc đầu chào từ giả Liễu ra về. Nàng liếc mắt với nụ cười thầm kín đoạn đi vội vào nhà. Hắn cho cuộc gặp gỡ nầy là dấu yêu mối tình đầu của hắn với Liễu.

Cái buổi ban đầu ấy cho Liễu ấn tượng về hắn. Một thể tính khó mường tượng, nhưng nàng cảm nhận được cái len lén trong hồn mình.Nàng rơi tình; nhưng nàng sợ phải tỏ,chẳng qua cũng do lề thói cố hữu ăn sâu vào trong máu, trong hồn người phụ nữ, dẫu chữ yêu có nói nên lời cũng cảm thấy ngờ ngợ. Giữa hai đứa đều có dấu ngoặc đó.Thế rồi ngày lại ngày mầm sống lên men. Hắn gặp Liễu trong một buổi sinh hoạt đoàn. Hắn đến gần và hỏi Liễu một vài câu xét không cần thiết, chủ tâm là đào đục,theo dõi tình ý của nàng. Mắt hắn cười:- Được rồi; tôi sẽ đưa đơn  lên cấp lãnh đạo xét và tôi trả lời cho cô hay. Liễu tần ngần giây lát quay gót ra khỏi phòng họp.Trường học cũ xưa, đổ nát bởi bom đạn mới sửa chửa laị sau ngày hắn về nhận công tác trường lớp ở đây. Dân làng mến mộ hắn xem hắn như người hay chữ. Liễu thầm phục hắn lần gặp ở đây.

Dark Skin

Tranh Vẽ của Võ Công Liêm Thiếu nữ da nâu / Girl with dark skin.

Ít hôm sau hắn đến nhà Liễu cho biết kết quả việc xét đơn. Nàng cảm thấy sung sướng sự có mặt của hắn hôm nay. Nàng ngẩn đầu nhìn hắn, đôi mắt lá răm của Liễu nhấp nháy và nàng bắt gặp cái nhìn không dấu được xúc động của hắn. Nàng khẽ nói: – Anh Tân; mời anh ngồi. Em lấy nước anh uống. Hắn ngồi lặng yên không nói một câu chỉ nhìn theo Liễu.Tiếng nói chỉ còn là hơi thở trong họng. Liễu đứng cạnh bên gợi chuyện, chuyện nhỏ, chuyện lớn, hắn chỉ lắng nghe mỉm cười thay nói. Nhiều lúc thấy hắn ngần ngừ muốn bộc lộ điều gì với Liễu rồi lại thôi. Đoạn đứng dậy cáo về. Liễu đưa hắn ra cổng, nắng bên ngoài rực rỡ chiếu sáng, mây thênh thang bay, gió đùa với cỏ cây Liễu cảm thấy tâm hồn mình lãng mạn .

Về đến nhà hắn vật xuống giường suy nghĩ về Liễu. Nhiều lúc hắn cũng không hiểu chính hắn. Chỉ qua mấy tuần ăn ở làng Phổ Hạ, vô ra xóm Rột, lên xuống chợ Sạn những chứng tích, địa danh đó đã lôi cuốn hắn gieo vào hắn một thứ tình yêu “thôi miên”. Ngày đêm là hình ảnh vấn vương, bóng Liễu chập chờn trong giấc ngủ, réo gọi tình yêu, hắn ôm, chụp Liễu trong mơ. Gặp nàng hắn như thằng câm nhìn mà không nói. Khổ cho một thằng người như hắn.Yêu mà không chịu bộc phát, thiếu năng động thì làm sao chinh phục được phụ nữ. Hắn thắc mắc chính hắn. Nhưng ngược lại thụ động của hắn là niềm tin yêu của Liễu.

Buổi văn nghệ ngoài trời là cơ hội cho họ gặp nhau. Liễu ngồi không xa tầm mắt hắn, thỉnh thoảng nàng nhìn đưa tình, tim hắn rung động. Hắn quyết tâm hành động nhưng bản chất rụt rè, cả nể lôi hắn xuống không cho hắn ngóc đầu lên đối diện. Mãn hát. Hắn đứng cạnh Liễu và hai người cùng đi về hướng sông. Đi dưới trăng lòng thổn thức, vai hắn chạm vào vai nàng, không thấy dấu hiệu khó chịu của Liễu, ngược lại Liễu cố tình đụng chạm nhiều hơn. Hắn vững dạ.-Tháng sau anh phải xa làng Phổ Hạ, xa Liễu và những người thân ở đây. Hắn nói trong nghẹn ngào.-Anh tính đi đâu hởi anh? Ai thay anh dạy ở đây? Liễu hỏi. Hắn ấm ớ trả lời và cúi đầu đi cho tới cuối xóm. Cảnh đêm thanh vắng, tiếng côn trùng rì rào ru ngủ. Trăng lấp ló như mời gọi, ngoại giới quyến rũ .Bóng đêm dụ dỗ họ mà họ không biết.-Anh vào nhà chơi một lát rồi về. Nàng mời. Hắn ngập ngừng như trẻ ăn vụng. Ông Nghị đã ngủ từ lâu với con Mực.Căn nhà nhỏ, bếp lửa đang thù tạc cùng họ.Ngọn đèn dầu soi sáng vào mặt hai người đang trò chuyện yêu đương. Thỉnh thoảng nghe tiếng cười êm dịu của Liễu.Tiếng cười đã ám ảnh hắn. Hắn chịu không nỗi. Nàng cười nói làm con tim hắn nhói lên. Một thoáng mà trời đã vào khuya. Khung cảnh ấm cúng cho hắn thêm can đảm, mạnh dạn hơn bình thường hay nhờ nội lực của Liễu? -Anh xa em anh nhớ lắm. Hắn nói. – Rồi anh cũng trở về thăm chứ ? Nàng nhấn mạnh.- Cha em cũng nhớ anh. Bà con ở đây cũng nhớ anh. Liễu nói trong nước mắt.-Anh không biết bao lâu thì anh trở về. Hắn kể hết lý do tại sao hắn phải đi cho Liễu biết. Nàng xót thương cho hắn, xót thương cho người mẹ của hắn phải sống cô độc, lầm lủi qua ngày với đôi gióng trên vai. Hắn là người con duy nhất của bà mẹ già, hắn mất cha ở tuổi còn nhỏ. Khi biết sự tình như thế nàng yêu hắn nhiều hơn. Liễu phân bua và không muốn hắn ra đi.- Em có chịu chờ anh không  ? Hắn sợ phải nói hết, sợ nàng đau khổ. – Mười năm hoặc sớm hơn anh không trở về em hãy quyết định đời em. Hắn nuốt nghẹn trong họng. Liễu ứa nước mắt; tình yêu mới chớm nở mà đã nhận đau thương.

Cảm thông được tình yêu thì sự hiến dâng là nghiã cử cao đẹp; Liễu không ngần ngại, ngấn lệ ôm hắn vào lòng, nhấc lên từng lời nức nở. Hắn rung động trước mảnh lực ái tình. Đêm xuống sâu, lặng gió, ngọn trăng lấp ló ngoài khung cửa tre, mùi rạ khói xông lên hương ấm xoa dịu niềm đau mà cả hai chôn kín từ lâu.Tình yêu đã mở khoá; dẫu có thụ động cách mấy, như hắn; cũng phải bung lên, lặng câm của hắn là sự chờ đợi bộc phát của hỏa sơn. Tâm lý nầy đã ủ trong người hắn. Tóc Liễu chảy dài lên mặt hắn, mùi nắng hạ hong khô, hắn nuốt từng nhịp thở, mồ hôi trán rịn ra, mắt hắn lờ đờ như ngáp cá chờ chết. Chìm dần theo bóng đêm. Không gian tĩnh lặng họ cảm thấy tự do bơi lội giữa biển tình. Hắn ôm nàng vào lòng, mắt Liễu nhắm lại trên ngực hắn. Liễu đẹp! nét đẹp của hiền thê thục nữ. Hắn cúi đầu  hôn lên tóc, lên mắt, nàng rùng mình, mỗi cái ngất lên hắn không chận nổi cơn khát từ lâu đi mãi trong sa mạc hoang vu. Không chế ngự được sức nóng dữ của cát bỏng, hắn đưa tay vào vườn địa đàng hái hai quả hồng đào nơi vườn cấm. Đôi mắt hắn tự động khép lại như kẻ ngoan đạo.Liễu đưa môi lên trong bóng tối. Làn sóng vô tình bắt tín hiệu, môi hắn tiếp nhận. Say sóng; hắn cúi gầm người và len lén đi xa hơn vào vùng trời lửa đạn. Hắn xáp chiến ! Liễu nằm ngoan. Hai kẻ ăn vụng êm trong bóng đêm. Ông Nghị nhả ra tiếng ngáy ngủ sồn sột. -Em hứa với anh. Gắng chờ anh nhé!.Liễu nuốt những lời mật ngọt vào tim. Môi kề môi, men tình thấm vô máu và rồi họ làm tình. Nàng riết hắn trong vòng tay. Hắn nghe tiếng nghiến của giường tre. Lúc ấy trời đã về sáng. Hắn lẽn ra về giữa màn sương trắng .

Mùa thu năm ấy hắn ra đi; bỏ lại sau lưng biết bao nỗi niềm lưu luyến, từng bước đi là từng giọt nước mắt rớt xuống, hắn đi trong đoàn người đấu tranh vào bưng biền. Đồi núi trùng điệp; đêm là ngày, đi mãi giữa bao la nghìn trùng, rừng thiên nước độc phủ quanh đời hắn mà hắn đã dấn thân cho một lý tưởng mà hắn mơ. Hắn đánh đổi đời hắn, đánh đổi người mẹ già, người tình cho một chuyến ra đi. Hắn đâm ra ngờ vực chính hắn. Tại sao có sự chọn lựa nầy ? Hắn tự chất vấn. Hắn bi quan với hoàn cảnh. Giữa tình yêu và tình đời hắn phải chọn. Hắn không thể ở lại. Đằng nào hắn cũng chết. Cho nên ra đi là giải pháp cuối cùng và chứng tỏ rằng hắn có chính nghiã. -Biết đâu được;ngày về lại vinh quang. Hắn an ủi cho thân phận. Nhưng hắn tin một điều tình yêu của hắn không chết. Tuy hắn nhầm!

Năm 197…hắn về lại quê nhà. Hắn đau khổ nhìn lại quê hương mình điêu tàn ,trầm thống, đời sống lam lũ còn lam lũ hơn thời chiến. Hắn đau đớn nhìn thấy mẹ già qụy xuống với tay gậy, mái tóc bạc trắng của sự mỏi mòn trông đợi. Mẹ hắn chẳng nhận được một đặc ân nào ngoài sự thảm sầu. Đời bạc đãi hắn. Giờ đây hắn hiểu thì đã muộn rồi. Bởi cuộc đời không mãi mãi như mình tưởng, nó chứa đựng vô vàng mọi thứ. Hắn gục đầu chuốt đau thương. Gần năm năm xa quê, xa người yêu đổi thay như thế, liệu người yêu mình có đổi thay không ? Hắn sợ; nhắm nghiền mắt lại dưới một thể xác yếu đuối, già nua, hắn trở về trong cô độc chẳng mấy vinh quang như hắn nghĩ, uổng công sách đèn, giờ đây ông chẳng ra ông thằng chẳng ra thằng; tiếc cho cái sở học của hắn. Hắn nhận ra sự lạc đường.

Tháng sau; hắn trở lại làng Phổ Hạ tìm cho bằng được Liễu. Hắn đứng trước mái nhà xưa, nơi tàn trử tình yêu, trước khi quyết định bước vào gian nguy. Thú điền dã đâu còn nữa, điêu tàn, mái tranh lên màu mốc xám, vách nhà lóc đất, bờ cây, bụi chuối rũ cánh buồn, cảnh quang mang màu tang chế. Hắn không nghe một tiếng động .- Đi đâu? Hay chết cả rồi! Hắn cảm thấy lạnh, ngồi rút chân trên thềm đất.-Không có Liễu là nỗi chết đến với hắn. Bổng nghe tiếng chân ai, nhỏm dậy coi phải Liễu về. Bà già đến gần hắn báo cho biết Liễu đưa xác cha nàng về quê mai táng.-Nghe đâu sáng mai cô Liễu trở lại. Nói xong bà quay gót. Hắn đứng cứng như cây trồng. Nghĩ đến Liễu mà thương xót cho nàng phải gánh chịu những khổ đau trong đời, chẳng qua cũng vì tình thương cao cả của nàng. Lúc ấy trời đã vào chiều hàng cây sầu đông ở cuối bờ ao đã ngả màu vàng sậm. Hắn nhớ ra mình đến giữa mùa thu và cũng mùa thu năm nào hắn giã từ Liễu để ra đi.

Ngày hôm sau; gặp Liễu hắn mừng như chết đi sống lại. Khựng người! Nước mắt lưng tròng khi nhận ra Liễu tiến về phía hắn. Nàng quấn vành khăn sô, gương mặt nàng mang mát một nỗi buồn khó tả. Liễu gầy,dung nhan nàng thấm mệt trông tội nghiệp.-Anh Tân,anh về hồi nào? Mời anh vào nhà. Liễu mừng thầm nhưng không tỏ rõ vì  nỗi đau cha mình. Hắn không ngờ gặp Liễu trong một tư thế thân thương như thuở nào. Hắn muốn kể cho nàng những uẩn khúc, những nỗi khổ của hắn trong thời chiến mà hắn phải đương đầu. Hắn khóc mà Liễu đâu có hay, những đêm kê đầu với tiếng súng giữa rừng hoang .Nhưng thôi; hắn biết Liễu đau khổ gấp bội so với hắn, trong lúc nàng đang thọ tang cha. Hắn cầm tay Liễu với nỗi niềm thương xót cho nàng, sự hy sinh chờ đợi của Liễu; năm năm ròng rả với tuổi thanh xuân, đời hắn bấp bênh sống nay chết mai sao mà nàng can đảm thế! Liễu cúi đầu. -Hiện nay anh ở đâu và làm gì? Nàng hỏi trong lo âu. Hắn khựng lại; ngay bản thân hắn cũng chưa tìm ra câu trả lời cho chính hắn. Hắn muốn cưới nàng làm vợ nhưng không dám đặc vấn đề. Bởi sau ngày trở về với hai bàn tay trắng, cơ quan chưa bố trí công tác thì lấy chi mà cưới hỏi. Hắn nghẹn họng nói không ra lời.

-Anh ở lại đêm nay với em ? Em nấu cơm anh ăn nghe! Hắn đứng dậy thắp mấy nén hương cho ông Nghị. Miệng lâm râm như tạ tội; mà trước đây ông đã đôi lần phân bua cùng hắn. Đêm xuống nhanh hơn mọi khi, gió rít lên từng chặp, đập vào mái tranh yếu đuối. Lửa bếp soi mặt cả hai đứa. Nàng ngồi lặng câm trong suy tư.- Chắc em còn giận anh ? Bác còn giận anh ? Anh ân hận lắm Liễu. Xin em tha thứ cho anh. Nàng không chấp những lời tha thiết ấy. Hắn trở về là niềm hạnh phúc cho Liễu; nàng kiên nhẩn chờ đợi thì sá gì phải ưu tư những điều đó. -Cha con em không bao giờ giận anh. Anh trở về là hạnh phúc chung. Liễu cúi đầu nói trong hơi thở. Hắn gục đầu, nhỏ từng giọt xuống đất đen; hắn thả xuống những hạt ngắn hạt dài cho đau thương, cho hối tiếc .

Quan hệ bình thường với Liễu;một năm sau mẹ hắn bịnh nặng, nằm viện chờ chết. Hắn biết đây là mối nguy lớn cho cá nhân hắn, dẫu mẹ hắn có chi nữa sự hiện diện của mẹ là cần thiết cho hắn, mất mẹ giữa lúc nầy là điều bất hạnh. Hắn muốn tiến nhanh cuộc tình với Liễu để đi đến hôn nhân, như thế; đáp được chữ hiếu với mẹ hắn.

Đời hắn; toan tính không bao giờ trở nên thực. Định mệnh đã đánh lừa hắn hay hắn chống lại định mệnh ? Cuối cùng rồi hắn cũng phải tin vào cái phận của con người.

Hắn và Liễu vội vàng làm lễ cưới chớp nhoáng, đám cưới “chạy tang” trước khi mẹ hắn nhắm mắt, đồng thời cho bà dướng mắt nhìn con dâu thảo của mình lần cuối. Nhưng tiếc thay mẹ hắn không nói ra lời, nằm ướp xác trên chiếc giường tre, thở cá, mắt nhắm cứng chờ ngọn đèn phụp tắt.Thế là xong !

Liễu thu dọn về nhà chồng; thừa kế cái cơ ngơi của ông nội hắn để lại, quê hương hắn làng Cốc Vũ, một làng chuyên nghành sản xuất ruốt mắm ở vùng ven biển. Hắn và Liễu ra tay buông trải làm ăn, thay đổi cuôc sống. Hắn nhìn sự nổ lực của vợ mà nhận ra giá trị làm người, một giá trị lấy từ nhân tâm mà ra. Hắn khâm phục và hảnh diện người vợ yêu quý của mình, yêu quý lòng can đảm vị tha, chịu đựng, khắc phục mọi khó khăn, sống chết có nhau, một đời trung trinh. Hắn hổ thẹn. Hắn nhìn hắn trong gương như một phế nhân, lầm lạc, mê muội, mất tư duy, mất lập trường chính đáng. Hắn đánh mất hết kể cả chữ nghiã.Tất cả là số không. Bởi tự nó đã bị đào thải mà hắn không hay.May thay;Liễu vừa là vợ vừa là ân nhân cứu rỗi đời hắn; kéo hắn ra giữa dòng nước xoáy…

Một năm sau Liễu và Tân sanh đứa con đầu lòng, họ cảm thấy hạnh phúc chưa bao giờ có.Vợ chồng ngồi đùa với con dưới nắng xuân, trong ước mơ tươi sáng hơn. Đâu đây vãng lên tiếng ai hát  não nùng, ai oán :

…em ơi đời đổi thay
lệ buồn nát tim tôi…*

VÕ CÔNG LIÊM  (ca.ab. chestermere . thu phân 2006)

*nhạc và lời :Khê Kinh Kha

THẦY ƠI…THẦY ĐÂU RỒI. ?

Nguyễn Thị Thanh Dương

thay oi

Tôi trở về Việt Nam thăm thân nhân vào một mùa hè.

Tôi thuê xe đến ngôi trường cũ, một mình tìm lại kỷ niệm xưa, không chỉ là mái trưòng trung học thân yêu mà còn có bóng dáng một tình yêu.Thày Chuẩn, giáo sư môn toán của tôi suốt 3 năm liền từ lớp 10 đến lớp 12.

Kể từ ngày tôi đi vượt biên được đến Mỹ định cư. Đây là lần đầu tiên tôi trở về Việt Nam và ngôi trường cũ là một kỷ niệm tôi luôn mong muốn được gặp lại.

Đứng trước ngôi trường xưa lòng tôi bồi hồi thổn thức….

Ngôi trường đã hoàn toàn thay đổi, trường được xây mới và rộng thêm, cây phượng vỹ gìa nơi sát hàng rào trường không còn nữa. Bao mùa hoa Phượng của tôi chín đỏ sân trường nay về đâu, hoa Phượng ơi, thày cô ơi, bạn bè ơi..…

Tên trường không thay đổi, vị trí trường vẫn là đây, nơi tôi từng đi về suốt mấy năm trung học.

Trường lớp đóng cổng đóng cửa im vắng trong một buổi trưa hè. Mùa khai trường sắp đến rồi, mai mốt sân trường im vắng này lại rộn rã thày trò đông vui.

Nhìn dãy hành lang trường hun hút tôi nhớ bóng dáng thày Chuẩn thường đi qua. Nhìn phòng lớp im tiếng tôi nhớ những lúc thầy đứng giảng bài và tôi thì mơ mộng nhìn ra ngoài khung cửa, bài toán thày giảng giải xong mà tôi giấc mộng chưa tròn.

Nước mắt rưng rưng tôi bâng khuâng tự hỏi:

–         Thày ơi…thầy đâu rồi?

Không biết thày Chuẩn còn dạy ở trường này không? Mai này đến ngày khai trường tôi sẽ đến đây, không là cô học trò nhỏ năm xưa, chỉ là người khách lạ, tôi sẽ đứng ngoài cổng như thế này để tìm trong đám đông thày trò một bóng dáng thày. Nhất định tôi sẽ nhận ra thày, con người ấy, nét mặt ấy tôi vẫn chưa quên dù 20 năm đã xa, 20 năm chưa gặp lại thậm chí chưa nghe tin tức gì về thày.

Suốt bao năm tôi mải lo cuộc sống hiện tại nơi quê người và mối tình học trò mong manh nơi quê nhà luôn là kỷ niệm đẹp.

Năm tôi lên lớp 10 thày Chuẩn mới đổi về trường dạy môn toán, ngày đầu tiên thày vào lớp lũ học trò con gái chúng tôi xôn xao vì thày giáo trẻ tuổi đẹp trai lại vui tính ăn nói ngọt ngào.

Chúng tôi đã nhanh chóng điều tra ra “lý lịch” của thày, độc thân đẹp trai học giỏi chỉ mỗi tội con nhà nghèo.

Tôi còn nhớ bạn Kim Sa nói:

– Thày chỉ đáng tuổi anh chúng mình thôi, tao chẳng muốn gọi bằng “thày”.

Tôi cũng nghĩ thế và tôi chỉ muốn gọi thày bằng “Anh”.

Tôi thầm yêu thày ngay năm học đầu tiên, chờ mong từng giờ học với thày, mừng vui khi thấy bóng dáng cao cao của thày xuất hiện, hồi hộp khi thấy đôi mắt hiền sau cặp kính cận của thày nhìn tôi dù chỉ là cái nhìn bình thường hay thoáng qua.

Có lần trong hành lang trường, từ xa thấy thày đang đi đến gần tôi đâm ra luống cuống vụng về làm rơi cả mấy quyển vở đang cầm trên tay. Thày đã cúi xuống nhặt lên đưa cho tôi. Giây phút đối diện và chạm tay ấy tôi không bao giờ quên.

Thời kỳ bao cấp cuộc sống ai cũng ít nhiều khó khăn, tôi đã chứng kiến cảnh các giáo viên chia nhau nhu yếu phẩm gạo thịt tiêu chuẩn tại văn phòng. Tôi thương thày giáo độc thân của tôi cũng không thoát khỏi cảnh đời thực tế này, nhưng dường như tôi ít khi thấy thày Chuẩn mang những thứ nhu yếu phẩm ấy về nhà.

Một học trò lớp tôi nghỉ bệnh mấy ngày ở nhà, gia cảnh nó khó khăn, thày Chuẩn là thày giáo chủ nhiệm sẽ tổ chức một buổi đến thăm để “động viên” học trò. Tôi là trưởng lớp được đi cùng thày.

Tôi bất ngờ khi thấy thày mang theo miếng thịt heo nửa ký và bịch gạo 12 ký là tiêu chuẩn của thày vừa lãnh. Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, thày nói:

– Nghe nói gia cảnh trò Hoa nghèo, lại ốm đau nghỉ học thày chẳng biết mang qùa gì, sẵn hôm nay có tiêu chuẩn gạo thịt này…

Tôi ngại ngùng và thương cảm…cho thày, chứ không phải cho bạn:

–  Thế…tháng này thày không có gạo thịt ăn hả? thày báo tin thăm Hoa đột xuất qúa em chẳng kịp góp phần mua qùa…

Thày Chuẩn mỉm cười:

–         Lo cho người bệnh chứ việc gì lo cho thày. Tháng này thày sẽ…ăn chực bố mẹ.

Sau này tôi biết thêm thày Chuẩn vẫn thỉnh thoảng nhường phần gạo thịt tiêu chuẩn của thày cho một vài bạn đồng nghiệp đông con hay gia cảnh khó khăn dù thày cũng chẳng khá gỉa .

Một nhà giáo chăm chỉ yêu nghề hết lòng chỉ dạy học trò, một nhà giáo luôn giúp đỡ bạn bè cả vật chất lẫn tinh thần, khi thì nhường tiêu chuẩn nhu yếu phẩm, khi thì thay bạn đứng lớp lúc họ bận việc hay ốm đau.

Lũ học trò chúng tôi đã “phát giác” ra những điều ấy không khó gì.

Thày là một chàng trai trẻ phóng khoáng và bao dung trong bộn bề cuộc sống.

Càng ngưỡng mộ thày tôi càng yêu mến thày.

Mùa hè năm lớp 12, mùa hè cuối cùng rồi mỗi người vào đời một hướng rẽ. Tôi sẽ đi xa hơn, cuộc chia tay này không thể nói cùng ai, gia đình tôi chuẩn bị cho hai chị em tôi đi vượt biên.

Ngày cuối cùng trước khi nghỉ hè tôi cố tình đợi để đối diện thày nơi hành lang lớp, lần này tôi không vụng về làm rơi cuốn vở mà vụng về nói chia tay với thày:

–         Em …chúc thày…ở lại… một mùa hè vui vẻ.

Thày ân cần :

–         Thày chúc em thi đậu đại học và tương lai mở ra phía trước. Còn thày dĩ nhiên vẫn ở lại làm “ông lái đò chở người qua sông”

“Anh lái đò” ơi, ước gì anh không chở em qua sông mà chở em trên suốt con sông dài cuôc đời nhỉ…

Tôi lãng mạn nghĩ thế. Thấy tôi không nói gì thêm thày định bước đi, tôi chợt tỉnh cơn mơ vội nói với theo:

–         Thày ơi…thày nhớ lo cho chính bản thân mình, giữ gìn sức khỏe…

Thày hiểu ý tôi và mỉm cười:

–         Em muốn nhắc lại chuyện thày đi thăm em Hoa với phần tiêu chuẩn lương thực của thày chứ gì. Xem này, thày có gày ốm đi tí nào đâu.

Khi bóng thày rẽ khuất vào một lớp học, tôi đứng ngẩn ngơ gọi thầm hai tiếng thân thương : “Thầy ơi…”.

Xa lớp xa trường đã buồn, xa thày tôi càng buồn hơn. Tôi ra đi mang theo một mối tình câm tuyệt vọng.

Để rồi hơn 20 năm sau trở về kỷ niệm năm nào bỗng thức dậy. Trong tôi vẫn còn hình bóng thày Chuẩn cao cao đẹp trai và rất đàn ông tính rộng rãi bao dung.

Bây giờ chắc thày đã có gia đình vợ con và vẫn là thày như thuở độc thân vui tính.

Tôi muốn biết thày còn dạy ở trường cũ không, để ngày khai trường sắp đến đây tôi nhất định sẽ đến trường, chỉ để nhìn thày bây giờ ra sao.

Tôi tự trách mình bấy lâu đã không tìm liên lạc với bạn bè đồng môn cũ để biết tin về thày.

Tôi cố moi óc nhớ lại những bạn bè cùng lớp cũ và nhớ ra nhà Kim Sa ở gần nhà tôi nhất nên đến thăm hỏi, Kim Sa đã dọn đi kể từ khi lập gia đình. Tôi xin được số điện thoại của Kim Sa..

Khi tôi gọi phone cho Kim Sa, nó mừng rỡ, chúng tôi cùng nhắc lại ngôi trường cũ bạn bè xưa. Tôi hỏi :

–         Kim Sa ơi, thày giáo Chuẩn đẹp trai, thần tượng ngày xưa của chúng mình đâu rồi ? thày còn dạy ở trường mình không?

–         Kim Sa định kể đây, thày Chuẩn đặc biệt nhất nên để dành kể sau cùng.

Tôi mừng rỡ, không kịp kìm nén lòng mình reo lên:

–         Thày Chuẩn đặc biệt là phải rồi. Một người tốt tính như thày chắc luôn gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.

–         Chỉ đúng một nửa, thày gặp…may mắn trong cuộc sống nhưng không còn đi dạy học nữa.

Kim Sa kể thày Chuẩn bây giờ giàu sang vào hàng đại gia. Thày lập gia đình với con gái một cán bộ cao cấp, gia đình vợ đã lo cho thày một chức vụ trong ngành giáo dục. Bao nhiêu năm qua thày làm giàu nhờ chạy điểm cho học sinh, muốn con em vào trường tốt, muốn con em vào đại học đều qua tay thày.

Nghe đến đâu tôi bàng hoàng đến đấy. Chàng tuổi trẻ thuở vào đời với tấm lòng hồn nhiên cởi mở, với nhiệt huyết yêu nghề yêu chữ đâu rồi?

– Lẽ nào thày Chuẩn lại thế??

Tôi cố tình chưa tin dù biết bạn đang nói thật, nói đúng. Kim Sa thản nhiên:

–         Bạn sống ở Mỹ nên không quen với những trò tiêu cực trong xã hội như thế này, chúng tôi ở Việt Nam thì là chuyện bình thường. Thời buổi này xã hội này ai có quyền lực trong tay mà không giàu mới là lạ.

Kim Sa nửa đùa nửa thật:

–         Thế bạn có muốn đến thăm thày xưa không?

Và Kim Sa tự nhanh nhẩu trả lời:

–         Đừng nhé, không ai tiếp bạn đâu. Vào cửa nhà thày phải có người giới thiệu, thày chẳng có thì giờ tiếp chuyện vớ vẩn những đứa học trò xưa. Với lại mùa hè này vợ chồng con cái thày đang đi du lịch Châu Âu chưa về.

Tôi chán nản nhưng vẫn mong là nãy giờ bạn…nói đùa:

–         Kim Sa đùa thế đủ chưa? Làm sao mà Kim Sa biết rõ về thày như thế ?

–         Ai dám nói đùa nói xấu một con người, lại là thày giáo cũ mà mình từng ngưỡng mộ. Từ một người bà con bên vợ của thày kể ra cho bạn bè anh ta và truyền đến bọn mình. Không tin thì cứ nhìn căn biệt thự lộng lẫy của gia đình thày cũng là một câu giải đáp. Thời buổi này nhà giáo chân chính có dạy trường điểm, dạy thêm ngoài giờ đến hao mòn sức khỏe, ho lao khạc ra máu cũng chỉ đủ sống chứ ai làm giàu cho nổi…

Tôi buông phone, những lời nói của Kim Sa đang bủa vây xung quanh tôi. Thày giáo trẻ tuổi đẹp trai con nhà nghèo nhưng tâm hồn không vướng bận vật chất lợi danh của ngày xưa đã thay thế bằng một ông cán bộ ngành giáo dục tham hư danh quyền lợi, bán rẻ lương tâm nhà giáo chỉ vì tiền.

Tôi đã mất thày rồi, tôi trách hoàn cảnh xã hội, trách người phụ nữ làm vợ thày đã lấy đi trong tôi hình ảnh đẹp của thày, lấy đi mối tình đầu đời tuổi học trò mới lớn của tôi, những thứ mà tôi từng trân trọng cất dấu trong đời..

Tôi thốt kêu lên trong thất vọng:

– Thày ơi…thày đâu rồi ??

  Nguyễn Thị Thanh Dương.

    ( August, 18, 2018)

từ một cuộc chiến

Chuyện cổ tích từ một cuộc chiến

(Nguồn: Báo Tiếng Dân)

Tác giả: Daniel Hautzinger

Dịch giả: Đông Kha

Câu chuyện cảm động về lời hứa 40 năm của người lính Mỹ với một em bé Hội An

Phil Seymour là trung sĩ của Đại đội C, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn TQLC, Sư đoàn TQLC 1 của Hoa Kỳ, ông đến Việt Nam vào tháng 12 năm 1966 và đã bị thương chỉ 1 tháng sau đó.

Tháng 6 năm 1967, Phil đóng quân ở một đảo nhỏ gần Hội An – Đà Nẵng, nhưng thường xuyên vào đất liền và tham quan ở Hội An. Trong những chuyến đi như vậy, Phil thường mang theo một chú chó nhỏ đằng sau balo của mình. Chú chó này tên là Boot, được ông cứu trong một lần hành quân ở trong rừng. Lúc đó Boot còn chưa dứt sữa.

Mỗi khi Phil và đồng đội chèo thuyền ghé vào đất liền, những đứa trẻ trong làng chạy ùa tới để hỏi xin các loại “đồ Mỹ” như kẹo, đồ hộp và cả thuốc lá. Thường thì toán lính Mỹ này sẽ chia cho bọn trẻ những thứ này trong khẩu phần của họ.

Trong số những đứa trẻ đó có một người tên Cam (có thể là Cẩm, Cầm…), luôn mặc đồ ngủ màu xanh và đi chân không. Cam không nhao nhao lên như những đứa trẻ khác mà đứng lùi về sau một chút. Ban đầu toán lính Mỹ tưởng Cam nhút nhát, tuy nhiên sau đó họ mới nhận ra là Cam rất khôn ngoan: Cậu không đến xin bằng tay không, mà mang đến những thực phẩm địa phương như dừa, chuối, chanh… để trao đổi. Vì vậy Cam rất được lính Mỹ yêu mến.

Một ngày của tháng 6 năm 1967, cậu bé Cam – 9 tuổi – tặng một quả chuối cho Phil. Trung sĩ Phil Seymour lúc này chuẩn bị rời vùng đất miền Trung này để đi nghỉ 1 tuần ở Thái Lan. Phil hỏi Cam rằng cậu muốn ông tặng quà gì. Thật ra một cậu bé nghèo ở làng quê heo hút này không thể biết là Thái Lan là ở đâu, có món gì để mà đòi hỏi. Cậu cũng không nói tiếng Anh được tốt lắm, suy nghĩ 1 chút rồi cậu chỉ vào cái đồng hồ mà Phil đang đeo. Trung sĩ Phil đồng ý.

Khi ở Thái Lan, Phil quên bén mất lời hứa về cái đồng hồ. Thật ra một anh lính đi du lịch nghỉ phép thì chỉ nghĩ đến việc ăn chơi, không có nhu cầu đi mua sắm. Hết kỳ nghỉ phép, trở lại Hội An, rồi gặp lại Cam, ông mới chợt nhớ tới vụ cái đồng hồ. Khi thấy Phil về, Cam chạy ùa tới, hớn hở.

Nhưng không có cái đồng hồ nào cả.

Ngay sau đó, đơn vị của Phil rời vùng đất này để về vùng phi quân sự, rồi đến tháng 1 năm 1968 thì ông rời Việt Nam.

Phil cho biết rằng cuộc sống của ông rất bình lặng, không có nhiều thứ làm ông hối tiếc, ngoại trừ lời hứa không thực hiện được với một cậu bé ở vùng quê nghèo miền Trung Việt Nam này. Đó thực sự là niềm hối hận lớn nhất trong đời của ông. Ông cũng đã từng nghĩ rằng sẽ phải mang niềm ân hận này theo cho đến khi lìa đời.

Phil Seymour là một người gốc Brookline, Massachusetts, ở trong quân ngũ thêm 27 năm, sau đó lấy bằng Master về luật và trở thành luật sư ở Lầu Năm Góc, sau đó là trưởng công tố viên trước khi nghỉ hưu năm 1995. Ông đã nghĩ rằng mình không thể trở lại Việt Nam một lần nào nữa.

Tuy nhiên vào năm 2007, vợ của Phil là Lynne cho ông biết là nhóm du lịch chung mà ông bà thường tham gia sẽ có một chuyến đến vùng Đông Nam Á và có dừng chân ở Hội An. Bà Lynne nói ông cân nhắc việc tham gia chuyến đi này, cũng là cơ hội để tìm lại Cam và thực hiện lời hứa 40 năm trước đó.

Đến khi ông Phil quay trở lại thì Hội An đã trở thành một thành phố du lịch nổi tiếng, được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vì kiến trúc của nó hầu như không thay đổi so với thời điểm thành lập hồi thế kỷ 15, là nơi giao thương nhộn nhịp của người Việt với người Hoa, Nhật và Châu Âu sau này.

Phil nghĩ rằng cơ hội để tìm lại được Cam gần như là số 0. Không thể biết được rằng Cam có thể sống sót qua được chiến tranh hay không, vì vùng đất này xưa kia rất ác liệt. Tuy nhiên Phil vẫn mang theo một cái đồng hồ trong chuyến du lịch này.

Hướng dẫn viên đoàn du lịch của Phil là một người Hà Nội, nói rằng anh biết rất nhiều người ở Hội An nên sẽ giúp tìm Cam. Thật bất ngờ là sau ngần ấy năm, ông Phil vẫn còn giữ một số tấm hình gia đình của Cam để có thể mang đi hỏi thăm.

Sau khi đến Hội An, nhận phòng khách sạn xong thì cũng là lúc anh hướng dẫn viên người Việt gọi Phil xuống và qua bên kia đường. Không biết bằng cách nào, người hướng dẫn viên này đã tìm được một người đàn ông đội nón màu xanh, người này nhìn tấm ảnh của Phil và nói trong hình là cha của anh chụp chung với 3 người con, người con trai út trong hình chính là người đội nón xanh này, và Cam chính là anh trai của anh. Ngay lúc đó, anh điện thoại để gọi Cam tới.

Phil lật đật chạy lên phòng khách sạn để lấy máy ảnh và đồng hồ, rồi chạy ngay xuống. Ngay khi băng lại qua đường, Phil cũng vừa thấy Cam tới, lúc này Cam đã là một người đàn ông 49 tuổi, làm nghề thợ mộc.

Hướng dẫn viên giải thích cho Cam hiểu câu chuyện. Anh ngơ ngác, không thể hiểu được rằng có người vừa đi nửa vòng trái đất chỉ để gặp anh và đưa chiếc đồng hồ.

Hướng dẫn viên chỉ ông Phil rồi hỏi Cam là có nhớ người đàn ông này không, Cam trả lời: “Có, ổng thường cõng con chó nhỏ trên lưng”. Hướng dẫn viên hỏi về lời hứa chiếc đồng hồ 40 năm trước, Cam trả lời: “Có, lúc đó tui mới 9 tuổi, nói tiếng Mỹ bập bẹ, nên nghĩ rằng đã có sự hiểu lầm nào đó”.

Theo chiều kim đồng hồ từ trái: Cam và anh trai; Cam và Phil Seymour trong cuộc hội ngộ 40 năm sau; Phil Seymour ở Việt Nam khi là lính Thủy quân Lục chiến; Cam và Phil Seymour năm 1967. Nguồn: Phil Seymour

Ông Phil và hướng dẫn viên đã giải thích cho Cam hiểu là không có sự hiểu lầm nào cả, chỉ là do Phil đã thất hứa.

Phil đưa cho Cam chiếc đồng hồ. Anh Cam rơi nước mắt. Họ cùng ôm nhau khóc.

Hôm sau anh Cam mời ông Phil đến nhà ăn tối. Vợ anh tên là Nở, cùng cô con gái tên Vy chuẩn bị cho bữa ăn, còn vợ chồng Phil – Lynne và anh hướng dẫn viên ngồi ăn. Phong tục của Việt Nam là khách đến nhà chỉ có việc ăn, và ăn, sau đó là đi về.

Vy – con gái đầu của anh Cam – lúc đó 28 tuổi, vừa mới kết hôn, nói rằng cô muốn được học đại học như 4 người em trai của mình, nhưng ở vùng quê này thì phụ nữ thường thiệt thòi, ít được học lên đại học.

Trên đường về khách sạn, Lynne – vợ của Phil – suy nghĩ và ngỏ ý muốn cố giúp Vy được học đại học. Với sự liên lạc, giúp đỡ của anh hướng dẫn viên, Vy đã được đi học ở Sài Gòn cùng với 4 người em trai đã đi học hồi trước đó. Vy nhận bằng liên thông năm 2010 và bằng cử nhân năm 2012.

Phil trở lại Việt Nam – có lẽ là lần cuối cùng – vào năm 2012 để dự lễ tốt nghiệp của Vy. Họ cũng mua vé máy bay cho vợ chồng Cam – Nở vào Sài Gòn. Đó cũng là lần đầu tiên Cam được đi máy bay, anh mang theo vô số quà quê để mở một bữa tiệc mừng tại nhà trọ của Vy. Lynne và Phil còn tặng cho Nở một lò vi sóng để giúp cô nấu ăn thuận tiện.

Hiện tại Vy đang làm việc ở Sài Gòn, vẫn thường xuyên gọi điện cho vợ chồng Seymours.

Một lời hứa tưởng như rất nhỏ, vô thưởng vô phạt, nhưng đã ám ảnh anh lính tên Phil trong 40 năm, khơi gợi lại cho ông những ký ức buồn về một vùng quê đau khổ, tan tác. Ông quyết chí tìm lại cậu bé năm xưa để xua đi nỗi đau đáu trong lòng. Phil cho biết:

“Nếu tôi thất hứa với một người lớn nào đó thì tôi sẽ không bị mang một nỗi ân hận dai dẳng đến như vậy. Đằng này tôi đã hứa với một đứa trẻ tốt bụng, ngây thơ. Nó không thề thốt hay cầu xin gì cả, trên khuôn mặt lúc nào cũng có một nụ cười”.

Chiến tranh mang lại những tổn thương khó lành trong tâm khảm những người lính tham chiến. Chính sự ngây thơ của Cam và những đứa trẻ xin kẹo khác đã làm dịu bớt những trăn trở không yên trong lòng người lính viễn chinh, giúp họ bình thản hơn để vượt qua được những hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc chiến.

Thêm một số hình ảnh trong bài. Nguồn: Phil Seymour

Căn cứ Thủy quân Lục chiến ở trên đảo. Nguồn: Phil Seymour
Phil và chú chó Boot trên ba lô. Nguồn: Phil Seymour
Cam và Phil Seymour năm 1967. Nguồn: Phil Seymour
Lynne Seymour và Vy, con gái của Cam. Nguồn: Phil Seymour

Đông Kha dịch từ: A Timely Reunion Across Four Decades and the Globe

Từ Một Góc Khuất Trong Công Viên

Gallery

This gallery contains 1 photo.

 Phạm Nga

Trong Công Viên Người Ta Mới Nghe Rõ Được Thứ Âm Thanh Khá Hiếm Hoi Giữa Phố Xá, Đó Là Tiếng Hót Líu Lo Của Chim Chóc, Có Khi Là Tiếng Kêu The Thé Của Loài Chim Lạ Nào Đó Trên Đỉnh Những Cây Sọ Khỉ Cao Ngất. Vào Mùa Hè, Lạ Lùng Là Tiếng Ve Sầu, Nghe Cứ Âm Âm, Mơ Hồ Ở Cùng Khắp Những Tán Lá Cây…>

   Sau ngày công viên Gia Định 2 mở cửa phía bên kia đường Hoàng Minh Giám, rộng rãi hơn và cảnh trí cũng đẹp công viên cũ bên này đường, tôi vẫn tiếp tục đến chỗ cũ mà từ dạo ấy, tên nó dài hơn một chút cho phân biệt: công viên Gia Định 1. 

 Có thể là do sức ì tâm lý của tuổi già mà người ta cứ trung thành với một quán cà phê, một sạp báo, một tiệm hớt tóc quen thuộc nào đó của mình, như riêng tôi cứ tiếp tục chọn “sân gôn” cũ – như dân địa phương quen gọi. Đúng ra, còn vì tôi ngại đi bộ băng qua đường. Thật ngán khi công viên của tôi mở cửa lúc mờ sáng, không khí đã nặng ô nhiễm mùi xăng dầu, bụi bậm và tiếng động vì sát bên là một cái ngã năm náo nhiệt – được mở rộng ra từ ngã ba Chú Ía Gò Vấp, một xóm mại dâm nổi tiếng thời chiến tranh –  đã rất đông xe cộ các loại rồi.

1.

Trời sáng dần, trên con đường chính lát gạch con sâu, dài khoảng 800 mét, chạy viền theo chu vi công viên, đã có lũ lượt người đi bộ, chạy bộ, mà đi bộ, nếu bước nhanh thì mất khoảng 10 phút. Sau khi đi bộ chừng 3 – 4 vòng vô chừng, tôi thường rẽ vào một nhánh đường nhỏ, chọn một góc khuất thường vắng người, lơ đãng tập vài động tác và Tiếp tục đọc

Câu Chuyện Thầy Trò

Gallery

This gallery contains 1 photo.

Trần Huiền Ân

Ông thầy không ở trong hàng lớn tuổi, không phải là giới trẻ mới tốt nghiệp sư phạm, cũng chưa tới khoảng trung niên, chỉ ở khoảng giữa hai thế hệ này, nhưng hội đủ đức tính của cả ba, chẳng những hội đủ mà còn vượt trội. Nghiêm nghị đạo mạo hơn các thầy lớn tuổi, vui vẻ hoạt bát hơn các thầy trẻ và chững chạc mực thước hơn các thầy trung niên. Mỗi khi bước vào lớp, có vẻ như ông thầy đem sự sợ hãi gieo rắc khắp bọn học trò. Không đứa nào đi trễ mà dám xin phép vô lớp. Ông thầy thấy đó nhưng cứ tảng lờ như không, và đứa đi trễ chịu khó ra sân sau hoặc xuống nhà ông Cai chờ đợi. Giờ học lúc ấy luôn luôn là giờ đôi, hai tiếng đồng hồ không phải là ngắn ngủi. Tôi đã có lần bị như vậy, mà tôi chỉ chậm hơn ông thầy không đầy mươi bước chân chứ lâu lắc gì cho cam. Muốn khóc mà khóc không được, rủa thì cũng chỉ dám rủa thầm !

          Lớp chúng tôi đâu phải lớp tầm thường. Chính thầy Hiệu trưởng cũng bảo rằng đây là nơi tập trung tài hoa, trí tuệ, đây là nơi bất cứ bộ môn nào từ học tập đến sinh hoạt đều có phần thưởng, và thầy cũng cảnh cáo về sự ngỗ nghịch không phải chỉ đứng thứ ba mà e còn hơn cả ma cả quỷ. Chúng tôi dám giỡn mặt với thầy Tổng Giám thị nữa, nhưng đối với ông thầy thì khác.

Ngồi nhìn lên ông thầy, chúng tôi có cảm tưởng như con hươu, con nai bị con cọp, con beo thôi miên, im lặng khép nép gần như không dám thở mạnh, nhìn nhau lo lắng, không biết đứa nào sẽ mang thân phận con mồi bị săn ! Thế nhưng, thời gian hỏi bài vừa hết, thường là năm sáu phút, có khi hai ba phút, có khi ông thầy ngồi xuống mở sổ, đảo Tiếp tục đọc

Cô Sướng Cưới Vợ

Gallery

This gallery contains 1 photo.

Đặng Xuân Xuyến

(Tặng tình yêu 2 em Ngân – Sướng)

Vâng! Thì hẳn là “cô” Sướng lấy vợ chứ làm sao có chuyện “cô” Sướng lấy chồng! Tuổi “cô” tuy chưa nhiều, nhưng ở cái làng quê này, cỡ tuổi hăm mấy như “cô” mà chưa có nơi có chốn sẽ là nhiều lời đàm tiếu lắm. Vì thế, cụ Bống lo dựng vợ gả chồng cho “cô” năm nay cũng phải.

Tuy “cô” không được cao ráo, mạnh mẽ như mấy cậu em nhưng bù lại “cô” rất khéo tay, chịu khó lam làm và đặc biệt “cô” là người rất tốt nết. Nếu không dấp phải tính khí đanh đá chua ngoa thì hẳn “cô” là người hiền thục nhất nhì làng xã. Kể cũng lạ, “cô” chẳng có gen di truyền về khoản “mồm năm miệng mười”, “cô” cũng chẳng tầm sư học đạo thế mà khiếu chửi nhau của “cô” lại hay đáo để, lại lừng danh thôn xóm. Làng trên xóm dưới, mọi người bảo nhau, trêu ai thì trêu, chọc ai thì chọc, nhưng chớ có động vào “cô” Sướng mà khổ. “Cô” sẽ vén quần, nhảy tanh tách tanh tách rồi bắc ghế vênh mặt lên mà chửi. “Cô” chửi từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, từ tối đên đêm, chửi cho đến khi nào kẻ bị chửi phải tâm phục khẩu phục, phải mò đến tận nhà năn nỉ xin cô đừng chửi nữa thì cô mới thôi. “Cô” chửi có bài có bản, có lớp có lang, có vần có điệu chứ không vớ câu nào chửi câu đấy như mấy bà buôn gà bán vịt. Ca dao tục ngữ nhiều người đọc có khi còn sai, còn lẫn lộn, còn “râu ông nọ cắm cằm bà kia” chứ các bài chửi của “cô” Sướng thì tuyệt không có một sai sót, tuyệt không lẫn lộn về câu từ, ý tứ. Thế mới tài! Thế mới xứng danh đệ nhất thiên hạ chửi của làng Đỗ Hạ! Tiếp tục đọc

Tô Canh Thơm Của Mạ

Gallery

This gallery contains 1 photo.

ThaiNC

Chỉ mới đôi năm trước đây thôi, mạ tôi vẫn còn khỏe và năng động lắm. Tuy đã lớn tuổi, nhưng bà vẫn tự nấu lấy thức ăn cho mình. Anh em tôi e ngại sợ mạ tay yếu đổ nước phỏng tay, hay sợ bà quên tắt bếp, lửa củi nguy hiểm… nhưng mà nói mấy cũng vô ích. Mạ viện lý do thức ăn tụi tôi nấu không hợp khẩu vị, và nhất là bà cần làm việc để qua thì giờ và cũng để vận động chân tay luôn thể. Thấy bà nói có lý nên tụi tôi cũng đành chiều ý. Thôi kệ, tới đâu hay tới đó. Vậy đó mà mạ tôi đã nấu ăn một cách ngon lành. Chẳng những bà nấu cho bà, mà cả lũ con cháu nội ngoại còn được hưởng lây nữa.
Hình như ít có lần nào sau khi đã gởi cháu cho Bà trông, đến đón về mà tôi không được mạ bới cho một chút đồ ăn mang theo. Và món mà bà thường làm cho tôi nhiều nhứt là món canh thơm. Bà biết đây là món mà tôi rất thích.
Kể cũng lạ. Những lần mang tô canh thơm về là tôi hầu như một mình làm trọn. Hai đứa con không ăn đã đành, mà cả H vợ tôi cũng chỉ sơ sơ vài muỗng góp vui vậy thôi, còn lại là tôi quét sạch không chừa một cọng hành. Tôi xì-xà xì-xụp ăn tô canh như ngày mai sẽ tận thế không bằng.
Thấy tôi thích món này như vậy, nên khoảng hai ba tuần mà không thấy tôi mang từ bà nội về là vợ tôi lục đục nấu. Tưởng cũng nói thêm bà xã tôi có biệt tài học nấu ăn. Nàng vô nhà hàng hoặc đi ăn ở đâu mà gặp món đắc ý, chỉ cần khươi đĩa đồ ăn coi sơ sơ là có thể về nhà nấu giống y chang. Cho nên với tô canh thơm đơn giản này là quá dễ dàng. Hôm tôi thấy tô canh thơm dọn lên bàn, ngạc nhiên quá tưởng là mạ tôi nấu nhờ người khác mang qua. Nhưng Hương nói nàng mới nấu theo kiểu của Bà nội. Tôi thích vô cùng, ngồi xuống chén thả giàn. Ăn xong vợ hỏi “ ngon không”” “Ngon chứ”. Vợ hỏi tiếp “ Có ngon như bà nội nấu không” Tôi thành thực trả lời “Ngon, nhưng mà hình như hơi khác với cách Bà nội nấu” Vợ tôi nói mới nấu lần đầu nên chưa chỉnh. Lần sau chắc chắn sẽ Tiếp tục đọc

Ông Thầy Bói Mù

Gallery

This gallery contains 1 photo.

Trần Thanh Tùng

Năm nay Xuân lại đến
Nhớ ông Thầy Bói mù
Chợ Cà Mau năm cũ
Cùng chiếc ghe màu xanh…

Thấm thoát đã gần ba mươi năm phiêu bạt bồng bềnh nơi đất khách, cứ mỗi độ Xuân về là tôi lại nhớ tới câu chuyện đã đi qua đời tôi với một người. Tuy chỉ gặp một lần ngắn ngủi, mà tôi cứ nhớ mãi cho đến bây giờ. Tôi xin được quay lại đoạn phim của hai mươi chín năm về trước để tưởng nhớ ông Thầy Bói Mù, nay đã trở thành “người muôn năm cũ”, và bác Chín Cụt, người thương binh “cách mạng giác ngộ”, đã nằm lại dưới lòng đại dương trên đường vượt biển tìm tự do.

Sau bốn lần tham gia tổ chức vượt biên thất bại qua nhiều cửa biển, từ Vàm Lẻo Cổ Cò Sóc Trăng tới Gành Hào Bạc Liêu xuống tận Sông Đốc Cà Mau. Người ta thì “nhất quá tam” còn riêng tôi thì “nhì quá tứ”, rồi tứ hóa… tù luôn. May nhờ người chiến hữu anh em chí cốt thương tình, cầm nhà bán cửa để chuộc “bùa” thỉnh “phép”, chạy chọt theo hệ thống “tam cấp”, từ cấp xã lên cấp huyện tới cấp tỉnh, nên tôi được ra khỏi trại giam với tờ giấy chứng nhận là… “gia đình có công với cách mạng”? Tiếp tục đọc

Câu chuyện thầy trò

Gallery

This gallery contains 1 photo.

Trần Huiền Ân

Ông thầy không ở trong hàng lớn tuổi, không phải là giới trẻ mới tốt nghiệp sư phạm, cũng chưa tới khoảng trung niên, chỉ ở khoảng giữa hai thế hệ này, nhưng hội đủ đức tính của cả ba, chẳng những hội đủ mà còn vượt trội. Nghiêm nghị đạo mạo hơn các thầy lớn tuổi, vui vẻ hoạt bát hơn các thầy trẻ và chững chạc mực thước hơn các thầy trung niên. Mỗi khi bước vào lớp, có vẻ như ông thầy đem sự sợ hãi gieo rắc khắp bọn học trò. Không đứa nào đi trễ mà dám xin phép vô lớp. Ông thầy thấy đó nhưng cứ tảng lờ như không, và đứa đi trễ chịu khó ra sân sau hoặc xuống nhà ông Cai chờ đợi. Giờ học lúc ấy luôn luôn là giờ đôi, hai tiếng đồng hồ không phải là ngắn ngủi. Tôi đã có lần bị như vậy, mà tôi chỉ chậm hơn ông thầy không đầy mươi bước chân chứ lâu lắc gì cho cam. Muốn khóc mà khóc không được, rủa thì cũng chỉ dám rủa thầm !

Lớp chúng tôi đâu phải lớp tầm thường. Chính thầy Hiệu trưởng cũng bảo rằng đây là nơi tập trung tài hoa, trí tuệ, đây là nơi bất cứ bộ môn nào từ học tập đến sinh hoạt
Tiếp tục đọc