[QUÀ QUÝ] :
Bạn trẻ Nguyễn Trường Trung Huy, một nhà sưu tầm miệt mài không ngưng nghỉ di sản VHNT miền Nam VN cũ, bất thần gởi cho phóng ảnh bài thơ Huế, Mùa Khổ Hạnh của HXS đăng trên báo Hiện Tượng số 4 năm 1970.
Chợt nhớ lại một thời một số bạn đồng học Văn Khoa có khả năng sáng tạo và quản trị được mời làm thư ký tòa soạn vài tạp chí văn học nghệ thuật như Nguyễn Đạt (hiện ở VN, vẫn còn làm thơ) coi sóc tờ Chính Văn (chủ nhiệm Nguyễn Mạnh Côn, mất trong lao tù cộng sản) – Trúc Lan Nguyễn Kiến Thiết, thư ký tòa soạn tờ Nghiên Cứu Văn Học (chủ nhiệm, linh mục GS Thanh Lãng. Anh NKT hiện sinh sống ở Montreal, Canada) – Lê Hoài Quỳnh biên tập tờ Hiện Tượng ( không rõ ai chủ trương. LH Quỳnh định cư ở Pháp, từ lâu bặt tin)
Đây là bài thơ, với ý/chữ ngây ngô của một thời tập tễnh làm thơ
HUẾ, MÙA KHỔ HẠNH
_____________________
bầu trời nào sụp đổ trong tôi
lòng rối lại
tháng bẩy trời mưa cắt thịt chia da
đã lang thang trên lối về thứ nhất
những đớn đau mọc lên từ cánh đồng phá huỷ
gió không đợi hoài âm . . .
thành phố như người tình xanh xao
đôi tay hững hờ áo bụi
chiều hôm tình cờ giá rét
người yêu tôi thắp ngọn nến tàn
trái tim nàng hóa thạch hay lòng tôi đã khăn tang
đó những điều bí mật
góc quán cũ thành quách xưa
khói tàn môi âm thầm kỷ niệm
đã hoài công gọi nhớ tên người
về theo tiếng hát sầu ai
cửa nhà hoang còn đứng lại
tường-đá-ngẩn-ngơ
người già và những sớm mai âm u
ngồi trầm ngâm cổ tích
ba năm trở lại Huế như ngưới say rượu
rượu không nồng tháng bẩy trời mưa
chiều nay dưới hàng cây đen buồn quá
con đường không lời tình tự
mưa rơi người cũng bạc lòng
đi và chết nhẹ ngoài cô đơn
về thăm chiếc vai cầu thân thuộc
giá chết hôm nào như hôm qua
trên đường giây không phút đến
chào nhau mừng hạnh ngộ
những con chim ngày lạ mỏi cánh
khi tôi về con sông già lạnh cóng
khóc bây giờ hay đã khóc nghìn năm
)(
hoàng xuân sơn